Thứ Tư, 3 tháng 2, 2010

Tình hình tài chính Doanh Nghiệp ra sao ?

Posted by Unknown Thứ Tư, tháng 2 03, 2010, under | No comments

Tài chính doanh nghiệp có thực sự minh bạch như các bản báo cáo? Câu hỏi này không hề dễ trả lời đối với các nhà đầu tư. Các cổ đông còn thụ động trong việc đóng góp ý kiến xây dựng Công ty mà chỉ quan tâm đến việc chia lợi nhuận, cổ tức. Các nhà đầu tư thường truy vấn lãnh đạo doanh nghiệp, kế toán trưởng, Giám đốc Tài chính của doanh nghiệp là “Tình hình tài chính doanh nghiệp ra sao?” Đây là câu hỏi thường gặp nhưng không dễ trả lời.

Doanh nghiệp Việt Nam chưa sẵn sàng minh bạch tài chính

Tình hình tài chính doanh nghiệp, nói một cách chung nhất, là tình hình tài sản, nguồn vốn của doanh nghiệp… được thể hiện, lượng hóa qua những chỉ số tài chính khô khan về tài sản, vốn lưu động, các khoản phải thu, phải trả, nợ, nguồn vốn chủ sở hữu, các khoản lợi nhuận… của Công ty tại một thời điểm nào đó. Ngoài ra, tình hình tài chính Công ty còn phải đề cập đến sức mạnh tài chính của Công ty qua giá tri tổng tài sản, nguồn vốn khấu hao, lượng tiền mặt bình quân. Các nhà phân tích tài chính doanh nghiệp thường quá quen thuộc với việc đọc, hiểu, phân tích các bằng báo tài chính như báo cáo thu nhập, bảng tổng kết tài sản và bảng ngân lưu. Đây là công việc thường xuyên mà kế toán trưởng phải thực hiện mỗi dịp tổng kết quý, 6 tháng hay kết thúc 1 năm tài chính.

Nhà đầu tư, ngoài việc nhận được các báo các thường kỳ của doanh nghiệp còn được cung cấp các báo cáo tài chính được kiểm toán bởi Công ty kiểm toán đọc lập. Trong đó, ngoài các thông số tài chính thông thường như đã nếu trên, còn được các kiểm toán viên đi sâu vào chi tiết các khoản mục lớn về tài sản, các khoản phải thu, phải trả, danh sách các tài sản cố định lớn, giấy tờ pháp lý của các tài sản đó, tình hình biến động của tài sản, nguồn vốn chủ sở hữu trong năm tài chính, các khoản lợi nhuận và tỉ lệ phân bố vào các qúy, cơ cấu nhân sự HĐQT và tỉ lệ vốn góp… Tóm lại, có rất nhiều chi tiết về tình hình tài chính doanh nghiệp được diễn giải một cách hệ thống, trong sáng và minh bạch theo các chuẩn mực kế toán được công nhận theo hệ thống chuẩn quốc gia và quốc tế.

Vấn đề còn lại là: cổ đông có được tiếp cận một cách dễ dàng với các tài liệu tài chính của doanh nghiệp và doanh nghiệp có sẵn sàng chịu chi phí để thuê kiểm toán độc lập bên ngoài hay không? Theo quan sát của người viết, ở Việt Nam, các doanh nghiệp chưa sẵn sàng cho việc minh bạch tài chính doanh nghiệp của mình. Có ít nhất 2 nguyên nhân chính dẫn tới hiện tượng (phổ biến) này. Đó là “‘ Tâm lý “phòng thủ” của các doanh nghiệp đối với các cơ quan quản lý Nhà nước (thuế vụ, công an, quản lý thị trường…). Sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp khiến các chủ doanh nghiệp phải dè chừng đối thủ, quyết không khai báo “nội tình” của doanh nghiệp cho công chúng đầu tư, nhằm tránh bất lợi về thông tin.

Một cách khách quan, hệ thống khai báo thuế và chính sách thu thuế của ta còn nhiều bất cập. Việc các cơ quan thuế thường bị “giao” chỉ tiêu thu thuế cao là áp lực chính đẩy nhiều chuyên viên phụ trách thuế ép doanh nghiệp, bóc tách các chi phí hợp lý hợp lệ để “tận thu”.

Điều này, về mặt chính sách thu thuế là không sai, nhưng về khía cạnh thực tế khiến doanh nghiệp luôn trong tình trạng khai thấp doanh thu, tăng chi phí… để hòng giảm lợi nhuận, từ đó giảm khoản thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp cho ngân sách Nhà nước.

Từ đó nảy sinh chuyện thường gặp là cảnh “thỏa hiệp” giữa nhân viên tính thuế và lãnh đạo doanh nghiệp mỗi dịp vào “mùa” tính thuế. Ai “biết thì sống” là câu cửa miệng của nhiều lãnh đạo doanh nghiệp. Đây vừa là kẽ hở về quản lý của Nhà nước, vừalàm môi trường kinh doanh không minh bạch, hình ảnh tài chính doanh nghiệp bị bóp méo, cổ đông không được thông tin đầy đủ về giá trị, khả năng tạo lợi nhuận của doanh nghiệp…

Quyền kiểm soát thuộc về cổ đông

Vậy, làm sao đế biết doanh nghiệp có lành mạnh về tài chính hay không? Khuôn khổ bài viết này không nhằm đi sâu về kỹ thuật tính toán các chỉ số tài chính của doanh nghiệp mà chỉ nói lên phương thức đi tìm hiểu về tình hình tài chính doanh nghiệp dưới góc độ của cổ đông, một nhà đầu tư. Loại bỏ các sự “cấu kết” giữa lãnh đạo doanh nghiệp với các Công ty kiểm toán, mà tiêu biểu là các vụ scandal tại nước Mỹ mấy năm về trước (Enroll, Worldcom), thì trách nhiệm và áp lực của từ cổ đông là rất quan trọng đối với thái độ ứng xử của lãnh đạo, HĐQT.

Hiện nay, dù chưa có những vụ bê bối lớn, nhưng với ma lực của đồng tiền, liệu trong số gần 100 Công ty kiểm toán hiện tại ở Việt Nam, có ai dễ bị lung lạc hay không? Tất nhiên, rất khó để trả lời câu hỏi này. Vậy thì, cổ đông phải thực hiện các quyển biểu quyết và phủ quyết của mình để chọn lựa các Công ty kiểm toán lớn, uy tín để làm người “soi” các ngóc ngách về tài chính doanh nghiệp giúp mình. Ngoài ra, để giúp kiếm soát tốt hơn hoạt động của HĐQT, việc bầu các thành viên Ban kiềm soát có trình độ, đạo đức là rất quan trọng trong việc duy trì cơ cấu minh bạch và hiệu quả của người “gác cổng” về mật tài chính cho cổ đông, bảo vệ quyền lợi chính đáng của họ.

Một thực tế khá phổ biến và đáng buồn ở nhiều Đại hội cổ đông của các Công ty cổ phần là thái độ bàng quan, thụ động của nhiều cổ đông. Ngoài các cổ đông là cán bộ công nhân viên của Công ty, vì sợ phát biểu chính kiến có thể đụng chạm “nồi cơm” của họ, thì đa phần các có đông vẫn còn thụ động trong việc đóng góp ý kiến xây dựng Công ty, quan soát nội bộ, kiểm toán độc lập… phần nhiều vẫn chỉ quan tâm đến lợi nhuận, cổ tức được chia như thế nào mà thôi.

Điều này, khiến phần lớn những quyết định quan trọng của Công ty như bầu Ban kiểm soát, kiểm toán diễn ra hình thức, mặc cho HĐQT quyết đinh. Vô tình, cổ đông đã không sử dụng quyền lực của mình để định đoạt các vấn đề quan trọng của Công ty. Giả sử HĐQT là những người ích kỷ, thu vén lợi ích cá nhân, thực hiện các quyết định tài chính doanh nghiệp không minh bạch, cấu kết với kiểm toán, cơ chế kiếm soát lỏng lẻo… thì nạn nhân cuối cùng vẫn là cổ đông, thường là những người không được tiếp cận đầy đủ với thông tin của doanh nghiệp, đặc biệt là tình hình tài chính doanh nghiệp.

Do đó, đế biết được tình hình tài chính doanh nghiệp có lành mạnh hay không, ngoài việc phân tích (một cách thụ động) các thông số tài chính doanh nghiệp được công bố, so sánh với các Công ty trong cùng lĩnh vực hoặc các Công ty đang niêm yết (nếu có số liệu), phần còn lại là phải có sự tìm hiểu (một cách chủ động) các bản giải trình báo cáo kiểm toán.

Hơn nữa, nếu là cổ đông của Công ty cổ phần, bạn phải giành quyền được phản biện, chất vấn Ban lãnh đạo doanh nghiệp, HĐQT, quyền được xem xét số sách tài chính doanh nghiệp, quyền được chọn lựa các Công ty kiểm toán tin cậy, uy tín, quyền được đè cử các ưng viên Ban kiểm soát có đức, có tài thay mặt mình kiểm soát hoạt động của HĐQT, đánh giá, kiểm soát tình hình tài chính doanh nghiệp. Tất cả các quyền trên đều là quyền được pháp định, ghi nhận trong Luật doanh nghiệp. Vấn đề còn lại là bạn sử dụng quyền lực đó ra sao mà thôi.

Quản trị khoản phải thu!

Posted by Unknown Thứ Tư, tháng 2 03, 2010, under | No comments

Khoản phải thu là số tiền khách hàng nợ doanh nghiệp do mua chịu hàng hóa hoặc dịch vụ. Có thể nói hầu hết các công ty đều phát sinh các khoản phải thu nhưng với mức độ khác nhau, từ mức không đáng kể cho đến mức không thể kiểm soát nổi. Kiểm soát khoản phải thu liên quan đến việc đánh đổi giữa lợi nhuận và rủi ro. Nếu bán chịu hàng hóa quá nhiều thì chi phí cho khoản phải thu tăng có nguy cơ phát sinh các khoản nợ khó đòi, do đó, rủi ro không thu hồi được nợ cũng gia tăng. Vì vậy, doanh nghiệp cần có chính sách bán chịu phù hợp.

Khoản phải thu của doanh nghiệp phát sinh nhiều hay ít phụ thuộc vào các yếu tố như tình hình nền kinh tế, giá cả sản phẩm, chất lượng sản phẩm, và chính sách bán chịu của doanh nghiệp. Trong các yếu tố này, chính sách bán chịu ảnh hưởng mạnh nhất đến khoản phải thu và sự kiểm soát của giám đốc tài chính. Giám đốc tài chính có thể thay đổi mức độ bán chịu để kiểm soát khoản phải thu sao cho phù hợp với sự đánh đổi giữa lợi nhuận và rủi ro. Hạ thấp tiêu chuẩn bán chịu có thể kích thích được nhu cầu dẫn tới gia tăng doanh thu và lợi nhuận, nhưng vì bán chịu sẽ làm phát sinh khoản phải thu, và do bao giờ cũng có chi phí đi kèm theo khoản phải thu nên giám đốc tài chính cần xem xét cẩn thận sự đánh đổi này. Liên quan đến chính sách bán chịu, chúng ta sẽ lần lượt xem xét các vấn đề như tiêu chuẩn bán chịu, điều khoản bán chịu, rủi ro bán chịu, và chính sách và quy trình thu nợ.

1. Tiêu chuẩn bán chịu

Tiêu chuẩn bán chịu là tiêu chuẩn tối thiểu về mặt uy tín tín dụng của khách hàng đê được doanh nghiệp chấp nhận bán chịu hàng hóa và dịch vụ. Tiêu chuẩn bán chịu là một bộ phận cấu thành chính sách bán chịu của doanh nghiệp và mỗi doanh nghiệp đều thiết lập tiêu chuẩn bán chịu của mình chính thức hoặc không chính thức.

Tiêu chuẩn bán chịu nói riêng và chính sách bán chịu nói chung có ảnh hưởng đáng kể đến doanh thu của doanh nghiệp. Nếu đối thủ cạnh tranh mở rộng chính sách bán chịu, trong khi chúng ta không phản ứng lại điều này, thì nổ lực tiếp thị sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng, bởi vì bán chịu là yếu tố ảnh hưởng rất lớn và có tác dụng kích thích nhu cầu. Về mặt lý thuyết, doanh nghiệp nên hạ thấp tiêu chuẩn bán chịu đến mức có thể chấp nhận được, sao cho lợi nhuận tạo ra do gia tăng doanh thu, như là kết quả của chính sách bán chịu, vượt quá mức chi phí phát sinh do bán chịu. Ở đây có sự đánh đổi giữa lợi nhuận tăng thêm và chi phí liên quan đến khoản phải thu tăng thêm, do hạ thấp tiêu chuẩn bán chịu. Vấn đề đặt ra là khi nào doanh nghiệp nên nới lỏng tiêu chuẩn bán chịu và khi nào doanh nghiệp không nên nới lỏng tiêu chuẩn bán chịu? Chúng ta xem xét một số mô hình ra quyết định trong quản trị các khoản phải thu.

MH1 - Mô hình nới lỏng chính sách bán chịu



MH2 - Mô hình thắt chặt chính sách bán chịu



2. Điều khoản bán chịu

Điều khoản bán chịu là điều khoản xác định độ dài thời gian hay thời hạn bán chịu và tỷ lệ chiết khấu áp dụng nếu khách hàng trả sớm hơn thời gian bán chịu cho phieps. Ví dụ điều khoản bán chịu “2/10 net 30” có nghĩa là khách hàng được hưởng 2% chiết khấu nếu thanh toán trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày hóa đơn được phát hành và nếu khách hàng không lấy chiết khấu thì khách hàng được trả chậm trong thời gian 30 ngày kể từ ngày phát hành hóa đơn.

Chính sách bán chịu không chỉ liên quan đến tiêu chuẩn bán chịu như vừa xem xét mà còn liên quan đến điều khoản bán chịu. Thay đổi điều khoản bán chịu lại liên quan đến thay đổi thời hạn bán chịu và thay đổi tỷ lệ chiết khấu

- Thay đổi thời hạn bán chịu

MH3 - Mô hình mở rộng thời hạn bán chịu



MH4 - Mô hình rút ngắn thời hạn bán chịu



- Thay đổi tỷ lệ chiết khấu

Điều khoản chiết khấu liên quan đến hai vấn đề: thời hạn chiết khấu và tỷ lệ chiết khấu. Thời hạn chiết khấu là khoảng thời gian mà nếu người mua thanh toán trước hoặc trong thời gian đó thì người mua sẽ được nhận tỷ lệ chiết khấu. Tỷ lệ chiết khấu là tỷ lệ phần trăm của doanh thu hoặc giá bán được khấu trừ nếu người mua trả tiền trong thời hạn chiết khấu. Thay đổi tỷ lệ chiết khấu ảnh hưởng đến tốc độ thu tiền đối với các khoản phải thu. Nhưng tỷ lệ chiết khấu sẽ làm giảm doanh thu ròng, do đó, giảm lợi nhuận. Liệu giảm chi phí đầu tư khoản phải thu có đủ bù đắp thiệt hại do giảm lợi nhuận hay không.

MH5 - Mô hình Tăng tỷ lệ chiết khấu



MH6 - Mô hình giảm tỷ lệ chiết khấu



Cần lưu ý rằng chính sách tăng tỷ lệ chiết khấu hay bất kỳ chính sách bán chịu nào cũng cần được xem xét thường xuyên xem có phù hợp với tình hình thực tiễn hay không. Sau khi thực hiện chính sách gia tăng tỷ lệ chiết khấu, do tình hình thay đổi, nếu tiết kiệm chi phí không đủ bù đắp cho lợi nhuận giảm, khi ấy công ty cần thay đổi chính sách chiết khấu. Nếu công ty muốn xem xét có nên quyết định giảm tỷ lệ chiết khấu lại hay không thì tiến hành phân tích mô hình.

3. Ảnh hưởng của rủi ro bán chịu

Trong các tình huống đã phân tích trên đây, chúng ta đều ngầm giả định rằng không có tổn thất do nợ không thể thu hồi. Thật ra chính sách bán chịu không chỉ liên quan đến tăng hoặc giảm khoản phải thu mà còn liên quan đến khả năng thu hồi khoản phải thu. Trong phần này chúng ta sẽ phân tích xem rủi ro bán chịu ảnh hưởng như thế nào qua xem xét mô hình sau đây:

MH7 - Mô hình nới lỏng chính sách bán chịu có xét đến ảnh hưởng của rủi ro từ bán chịu



Trên đây là một số tình huống giúp giám đốc tài chính có cơ sở quyết định chính sách khoản phải thu. Tuy nhiên, do quản trị khoản phải thu phải đối mặt với nhiều tình huống phức tạp và khó mô hình hóa nên nhìn chung mô hình quyết định trong quản lý khoản phải thu có thể mô tả tóm tắt như sau:

MHTQ - Mô hình tổng quát để ra quyết định quản trị khoản phải thu


Xây dựng và phân tích chi phí định mức!

Posted by Unknown Thứ Tư, tháng 2 03, 2010, under | No comments

Phân tích hoạt động kinh doanh phải cố gắng lượng hoá bằng cách dựa trên những dữ liệu được thu thập ( ngành thống kê) xây dựng thành các phương trình (ngành toán học kinh tế ) để kiểm chứng tính xác thực của lý thuyết và những sai biệt do các yếu tố không nhìn thấy, không thể giải thích khác (ngành kinh tế lượng) trước khi sử dụng chúng để phân tích dự báo. Mỗi nội dung phân tích đều có ý nghĩa đối với việc hình thành chiến lược kinh doanh lâu dài, ổn định hoặc xác lập các giải pháp trước mắt của doanh nghiệp. Kết quả phân tích là cơ sở cho các quyết định quản trị trong từng giai đoạn kinh doanh, hoặc trong chiến lược dài hạn.

Để kết quả phân tích có giá trị, các nhân tố cần được cố gắng định lượng trong khả năng có thể. Chính những thông tin lượng hoá đó mới đúng nghĩa là “ hệ thống thông tin hữu ích của kế toán, cơ sở của các quyết định quản trị và chỉ có điều này mới làm cho phân tích hoạt động kinh doanh trở nên thuyết phục và sẽ là hoạt động thường xuyên được quan tâm tại doanh nghiệp.

Trong doanh nghiệp, việc xây dựng định mức chi phí và phân tích định mức chi phí vẫn chưa được quan tâm đúng mức. Bài viết này xin đưa ra cách xây dựng định mức chi phí và phân tích các định mức đó.

Trước hết phải hiểu chi phí định mức là gì. Đó là chi phí dự tính để sản xuất một sản phẩm hay thực hiện một dịch vụ cho khách hàng

Công dụng của chi phí định mức

1. Là cơ sở để doanh nghiệp lập dự toán hoạt động vì muốn lập dự toán chi phí nguyên vật liệu phải có định mức nguyên vật liệu, chi phí nhân công phải có định mức số giờ công
2. Giúp cho các nhà quản lý kiểm soát hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp vì chi phí định mức là tiêu chuẩn, cơ sở để đánh giá
3. Góp phần thông tin kịp thời cho các nhà quản lý ra quyết định hàng ngày như định giá bán sản phẩm, chấp nhận hay từ chối một đơn đặt hàng, phân tích khả năng sinh lời
4. Gắn liền trách nhiệm của công nhân đối với việc sử dụng nguyên vật liệu sao cho tiết kiệm

Nguyên tắc xây dựng định mức tiêu chuẩn:

Quá trình xây dựng định mức tiêu chuẩn là một công việc có tính nghệ thuật hơn là khoa học. Nó kết hợp giữa suy nghĩ với tài năng chuyên môn của tất cả những người có trách nhiệm với giá và chất lượng sản phẩm. Trước hết phải xem xét một các nghiêm túc toàn bộ kết quả đã đạt được. Trên cơ sở đó kết hợp với những thay đổi về điều kiện kinh tế, về đặc điểm giữa cung và cầu, về kỹ thuật để điều chỉnh và bổ sung cho phù hợp

Phương pháp xác định chi phí định mức :

* Phương pháp kỹ thuật: phương pháp này đòi hỏi sự kết hợp của các chuyên gia kỹ thuật để nghiên cứu thời gian thao tác công việc nhằm mục đích xác định lượng nguyên vật liệu và lao động hao phí cần thiết để sản xuất sản phẩm trong điều kiện về công nghệ, khả năng quản lý và nguồn nhân lực hiện có tại doanh nghiệp

* Phương pháp phân tích số liệu lịch sử: Xem lại giá thành đạt được ở những kỳ trước như thế nào, tuy nhiên phải xem lại kỳ này có gì thay đổi và phải xem xét những chi phí phát sinh các kỳ trước đã phù hợp hay chưa, nếu không hợp lý, hợp lệ thì bỏ hay xây dựng lại.

* Phương pháp điều chỉnh: Điều chỉnh chi phí định mức cho phù hợp với điều kiện hoạt động trong tương lai của doanh nghiệp

Xây dựng định mức cho các loại chi phí sản xuất

- Xây dựng định mức chi phí nguyên vật liệu trực tiếp:

Về mặt lượng nguyên vật liệu : Lượng nguyên vật liệu cần thiết để sản xuất một sản phẩm, có cho phép những hao hụt bình thường

Để sản xuất 1 sản phẩm thì định mức tiêu hao nguyên vật liệu là:

1. Nguyên vật liệu cần thiết để sản xuất 1 sản phẩm
2. Hao hụt cho phép
3. Lượng vật liệu tính cho sản phẩm hỏng

Về mặt giá nguyên vật liệu : Phản ánh giá cuối cùng của một đơn vị nguyên vật liệu trực tiếp sau khi đã trừ đi mọi khoản chiết khấu thương mại, giảm giá hàng bán. Định mức về giá nguyên vật liệu để sản xuất sản phẩm là:

- Giá mua ( trừ đi các khoản chiết khấu thương mại, giảm giá hàng bán )

- Chi phí thu mua nguyên vật liệu

Như vậy ta có:

Định mức về chi phí NVL = Định mức về lượng * định mức về giá

- Xây dựng định mức chi phí nhân công trực tiếp:

Định mức về giá một đơn vị thời gian lao động trực tiếp: bao gồm không chỉ mức lượng căn bản mà còn gồm cả các khoản phụ cấp lương, BHXH,BHYT,KPCĐ của lao động trực tiếp. Định mức giá 1 giờ công lao động trực tiếp ở một phân xưởng như sau:

- Mức lương căn bản một giờ
- BHXH,

Định mức về lượng thời gian cho phép để hoàn thành 1 đơn vị sản phẩm. Có thể được xác định bằng 2 cách:

1. Phương pháp kỹ thuật: chia công việc theo nhiều công đoạn rồi kết hợp với bảng thời gian tiêu chuẩn của những thao tác kỹ thuật để định thời gian chuẩn cho từng công việc
2. Phương pháp bấm giờ

Về lượng thời gian để sản xuất 1 sản phẩm được xác định như sau:

+ Thời gian cần thiết để sản xuất 1 sản phẩm
+ Thời gian nghĩ ngơi, lau chùi máy
+ Thời gian tính cho sản phẩm hỏng

Như vậy ta có:

Định mức chi phí NCTT = Định mức lượng x Định mức giá


- Định mức chi phí sản xuất chung

*Định mức biến phí sản xuất chung


Cũng được xây dựng theo định mức giá và lượng. Định mức giá phản ánh biến phí của đơn giá chi phí sản xuất chung phân bổ. Định mức lượng, ví dụ thời gian thì phản ánh số giờ của hoạt động được chọn làm căn cứ phân bổ chi phí sản xuất chung cho 1 đơn vị sản phẩm

Ví dụ: Phần biến phí trong đơn giá sản xuất chung phân bổ là 1200 đ và căn cứ được chọn để phân bổ là số giờ lao động trực tiếp (định mức về lượng thời gian trực tiếp sản xuất 1 sản phẩm) là 3.5 giờ/sp thì định mức phần biến phí sản xuất chung của sản phẩm là:

1 200đ/ giờ x 3.5 giờ/s.p = 4 200đ/s.p

*Định mức định phí sản xuất chung

Được xây dựng tương tự như ở phần biến phí. Sở dĩ tách riêng là nhằm giúp cho quá trình phân tích chi phí sản xuất chung sau này.

Ví dụ: Phần định phí trong đơn giá sản xuất chung phân bổ là 3 200đ/giờ và căn cứ chọn phân bổ là số giờ lao động trực tiếp với 3.5 giờ/s.p, thì phần định phí sản xuất chung của 1 sản phẩm là:

3 200đ/giờ x 3.5 giờ/s.p = 11 200 đ/s.p

Vậy, đơn giá phân bổ chi phí sản xuất chung :

1 200đ/s.p + 3 200 đ/giờ = 4 400đ

Chi phí sản xuất chung để sản xuất 1 sản phẩm là:

4 400 đ/giờ x 3.5 giờ/s.p = 15 400 đ/s.p

Từ cách xây dựng định mức trên ta đi xây dựng phương trình hồi quy dưới dạng tuyến tính thể hiện mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành nên chí phí sản xuất:

Y = ao + a1X1 + a2X2 + a3X3

Y: Chi phí sản xuất sản phẩm

X1: Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp

X2: Chi phí nhân công trực tiếp

X3: Chi phí sản xuất chung

Ta đi xây dựng phương trình hồi quy tuyến tính thể hiện mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành nên chi phí định mức về lượng và giá của chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung như sau:

- Chi phí định mức nguyên vật liệu trực tiếp

Phương trình hồi quy chi phí định mức về lượng nguyên vật liệu:

G= ao +a1g1 + a2g2 + a3g3 +e

G là chi phí định mức về lượng nguyên vật liệu

g1 là lượng nguyên vật liệu cần cho sản xuất 1 sản phẩm

g2 là lượng nguyên vật liệu hao hụt cho phép

g3 là lượng nguyên vật liệu dùng cho sản phẩm hỏng

ao là số hạng cố định

a1 là mức tác động tới định mức lượng nguyên vật liệu khi lượng nguyên vật liệu dùng cho sản xuất 1 sản phẩm thay đổi 1 đơn vị

a2 là mức tác động tới định mức lượng nguyên vật liệu khi lượng nguyên vật liệu hao hụt cho phép thay đổi 1 đơn vị

a3 là mức tác động tới định mức lượng nguyên vật liệu khi lượng nguyên vật liệu dùng cho sản phẩm hỏng thay đổi 1 đơn vị

e là sai số, thể hiện sự tác động của các yếu tố khác

Phương trình hồi quy chi phí định mức về giá nguyên vật liệu:

Z = ao +a1z1 + a2z2 + e

Z là chi phí định mức về giá nguyên vật liệu

z1 là giá mua ( sau khi trừ đi các khoản giảm trừ)

z2 là chi phí thu mua

ao là số hạng cố định

a1 là mức tác động tới định mức giá nguyên vật liệu khi giá mua thay đổi 1 đơn vị

a2 là mức tác động tới định mức giá nguyên vật liệu khi chi phí thu mua thay đổi 1 đơn vị

e là sai số, thể hiện sự tác động của các yếu tố khác

- Chi phí định mức nhân công trực tiếp

Phương trình hồi quy chi phí định mức về lượng chi phí nhân công trực tiếp:

N= ao +a1n1 + a2n2 + a3n3 + e

G là chi phí định mức về lượng nhân công trực tiếp

g1 là lượng thời gian cần thiết để sản xuất 1 sản phẩm

g2 là lượng thời gian nghĩ ngơi, lau chùi máy

g3 là lượng thời gian tính cho sản phẩm hỏng

ao là số hạng cố định

a1 là mức tác động tới định mức lượng nhân công khi lượng thời gian cần thiết để sản xuất 1 sản phẩm thay đổi 1 đơn vị

a2 là mức tác động tới định mức lượng lượng thời gian nghĩ ngơi, lau chùi máy thay đổi 1 đơn vị

a3 là mức tác động tới định mức lượng thời gian tính cho sản phẩm hỏng thay đổi 1 đơn vị

e là sai số, thể hiện sự tác động của các yếu tố khác

Phương trình hồi quy chi phí định mức về giá nhân công trực tiếp:

M= ao +a1m1 + a2m2 + a3m3 + e

M là chi phí định mức về giá nhân công trực tiếp

g1 là giá mức lương căn bản giờ công trực tiếp

g2 là mức BHXH, BHYT, KPCĐ tính cho 1 sản phẩm

g3 là phụ cấp tính cho 1 sản phẩm

ao là số hạng cố định

a1 là mức tác động tới định mức giá nhân công khi mức lương căn bản dùng thay đổi 1 đơn vị

a2 là mức tác động tới định mức giá nhân công khi mức BHXH, BHYT, KPCĐ thay đổi 1 đơn vị

a3 là mức tác động tới định mức giá nhân công khi mức phụ cấp thay đổi 1 đơn vị

e là sai số, thể hiện sự tác động của các yếu tố khác

- Chi phí định mức sản xuất chung: Chi phí sản xuất chung được phân thành biến phí và định phí

Phương trình hồi quy định mức chi phí sản xuất chung như sau:

K = ao + a1k1 + a2k2

K là định mức chi phí sản xuất chung

k1 là biến phí sản xuất chung cần thiết để sản xuất 1 sản phẩm

k2 là định phí sản xuất chung cần thiết để sản xuất 1 sản phẩm

ao là số hạng cố định

a1 là mức tác động tới định mức chi phí sản xuất chung khi biến phí sản xuất chung cần thiết để sản xuất 1 sản phẩm thay đổi 1 đơn vị

a2 là mức tác động tới định mức chi phí sản xuất chung khi định phí sản xuất chung cần thiết để sản xuất 1 sản phẩm thay đổi 1 đơn vị

Sau khi đã xây dựng được những phương trình toán học với mô hình hồi quy bội (hay hồi quy đa biến) ta sẽ sử dụng các kỹ thuật trong môn học kinh tế lượng để giải bài toán này. Từ đó mà việc phân tích được chính xác và chi tiết, xác định được những nhân tố trực tiếp làm ảnh hưởng đến sự biến động của chi phí, giúp nhà quản lý có nguồn thông tin chắc chắn để có giải pháp kịp thời và hiệu quả.

Doanh nghiệp có nhiều tiền mặt, tốt hay không?

Posted by Unknown Thứ Tư, tháng 2 03, 2010, under | No comments

Dường như tiền mặt luôn là một cái gì đó mà ai cũng thích sở hữu, doanh nghiệp cũng vậy. Thế nhưng việc doanh nghiệp có quá nhiều tiền mặt liệu có phải là một điều tốt?

Chúng ta biết rằng hầu hết các doanh nghiệp vận hành đều chú ý sử dụng lợi ích từ việc vay nợ.
Trong điều kiện hoạt động bình thường, tài trợ bằng nợ có thể giúp doanh nghiệp gia tăng khả năng sinh lợi, thế nhưng nhà đầu tư nào cũng biết đến mặt trái của nợ. Khi mọi thứ không diễn biến như các kế hoạch, thì nợ có thể khiến doanh nghiệp gặp vấn đề nghiêm trọng.

Thế còn vị thế tiền mặt của doanh nghiệp thì sao? Qúa nhiều nợ chắc chắn là một điều không tốt, liệu điều đó có đúng với tiền mặt?

Trước tiên, có vẻ như nhà đầu tư luôn tìm kiếm các doanh nghiệp có lượng tiền mặt dồi dào thể hiện trên bảng cân đối kế toán, bởi vì họ tin rằng nhiều tiền mặt sẽ giúp doanh nghiệp xử lý một cách dễ dàng nếu các kế hoạch kinh doanh đang xấu đi và nó cũng cho doanh nghiệp nhiều sự lựa chọn hơn trong việc tìm kiếm các cơ hội đầu tư trong tương lai.

Thật không may, chẳng có gì là đơn giản, tiền mặt cũng vậy. Lượng tiền mặt trên bảng cân đối kế toán của mỗi doanh nghiệp sẽ được nhà đầu tư hiểu với nhiều các tác động tín hiệu khác nhau: gồm cả tín hiệu tốt và tín hiệu xấu. Dĩ nhiên là nếu hiểu rõ được nguồn hình thành các khoản tiền mặt cho doanh nghiệp, loại hình doanh nghiệp và các kế hoạch mà các nhà quản trị đang dự định thực hiện sẽ giúp nhà đầu tư có cái nhìn chuẩn xác hơn.

Các lý thuyết tài chính doanh nghiệp nói rằng mỗi doanh nghiệp nên có một mức tiền mặt thích hợp cho doanh nghiệp mình, một lượng đủ để thanh toán lãi vay, các chi phí và chi tiêu vốn, ngoài ra còn phải dự trữ thêm một ít nữa để doanh nghiệp kịp xử lý trong những tình huống khẩn cấp. Nhà đầu tư có thể tính toán chỉ số thanh toán hiện hành và chỉ số thanh toán nhanh của doanh nghiệp để xác định khả năng doanh nghiệp có thể đáp ứng các nghĩa vụ tài chính đến hạn hay không? Dĩ nhiên là các nghĩa vụ này phải trả bằng tiền mặt.

Theo lý luận, nếu doanh nghiệp có bất cứ một lượng tiền mặt nào cao hơn mức cần thiết đó thì lượng tiền mặt đó nên được phân phối lại cho các cổ đông thông qua cổ tức hoặc mua lại cổ phần. Sau đó, nếu các nhà quản trị tìm thấy các cơ hội đầu tư mới, họ có thể ra thị trường vốn phát hành cổ phần để huy động lượng vốn cần thiết.

Thực tế thì việc doanh nghiệp có nhiều tiền mặt cũng có những điểm tốt. Nhà đầu tư không phải là người bên trong doanh nghiệp nên thông thường nếu nhìn thấy khoản mục tiền mặt trên bảng cân đối kế toán nhiều bao giờ cũng yên tâm hơn so với các doanh nghiệp có lượng tiền mặt ít hơn. Nhất là khi qua các quý, hoặc qua các năm, lượng tiền mặt tăng lên đều đặn và ổn định, nó là một tín hiệu cho thấy doanh nghiệp đang hoạt động rất tốt, đang phát triển rất mạnh. Tiền mặt tích lũy quá nhanh đến mức các nhà quản trị không kịp có thời gian để lên kế hoạch sử dụng chúng sao cho có hiệu quả nhất.

Microsoft là một thí dụ. Trong ngành công nghiệp sản xuất phần mềm, có lẽ tên tuổi của Microsoft đã nổi tiếng toàn thế giới. Microsoft hoạt động quá tốt đến mức dòng tiền mặt hằng năm luôn nhiều hơn 40 tỷ USD. Do doanh thu vẫn tiếp tục tăng trưởng mạnh và tiền mặt cứ thế tăng lên nhanh chóng. Các doanh nghiệp thành công khác trong các ngành như sản xuất phần mềm và dịch vụ, giải trí và truyền thông thường không bị đòi hỏi về chi tiêu vốn nhiều như các công ty trong các ngành thâm dụng vốn.

Vì vậy, tiền mặt của các doanh nghiệp ấy cứ thế tăng lên. Trong khi đó, các doanh nghiệp phải chi tiêu vốn nhiều như các nhà sản xuất thép, phải thường xuyên đầu tư rất nhiều cho các trang thiết bị, dâyimages1253806_money.jpgchuyền sản xuất và nguyên vật liệu sản xuất. Các doanh nghiệp trong các ngành thâm dụng vốn như vậy thường cần duy trì lượng tiền mặt cần thiết trong một thời gian dài hơn bởi vì vòng quay tiền mặt của chúng không thể nhanh như các doanh nghiệp trong các ngành khác.

Hơn thế nữa, nhà đầu tư nên biết rằng các doanh nghiệp trong các ngành sản xuất, dịch vụ có tính chu kỳ thì cần duy trì lượng tiền mặt nhiều để vượt qua giai đoạn đi xuống của chu kỳ sản xuất. Ví dụ như Boeing hay BMW, lượng cầu đối với các mặt hàng này thường tăng cao trong một thời điểm nhất định của chu kỳ kinh doanh và sau đó họ lại phải đối mặt với giai đoạn khác của chu kỳ khiến cho lượng tiền mặt bị sụt giảm nhanh chóng. Do đó, đối với các doanh nghiệp như vậy thì họ cần có một lượng tiền mặt dự trữ nhiều hơn mức cần thiết để đáp ứng cho các nghĩa vụ ngắn hạn của họ.

Nói như thế không có nghĩa là bao giờ có nhiều tiền mặt hơn mức lý thuyết đưa ra cũng tốt. Một mức tiền mặt cao thể hiện trong bảng cân đối kế toán có thể khiến cho nhà đầu tư đặt câu hỏi, nhất là khi lượng tiền mặt đột nhiên cao hơn mức bình thường. Tại sao các nhà quản trị lại để tiền mặt ở đó mà không đem đi sử dụng? Nhà đầu tư có quyền nghi ngờ vì doanh nghiệp đã mất các cơ hội đầu tư hoặc là ban quản trị doanh nghiệp quá yếu kém nên đã không thể biết làm gì với lượng tiền mặt đó. Việc để tiền mặt trong doanh nghiệp quá nhiều luôn có chi phí cơ hội.

Chi phí cơ hội của tiền mặt trong trường hợp này được hiểu là sự khác nhau giữa nhau giữa lãi suất có được khi nắm giữ tiền mặt (tiền gửi không kỳ hạn ở ngân hàng cũng được xem như là tiền mặt) và cái giá phải trả để có tiền mặt. Cái giá phải trả để nắm giữ tiền mặt, đó chính là chi phí sử dụng vốn bình quân của doanh nghiệp WACC. Nếu một doanh nghiệp khi đầu tư vào một dự án mới hoặc mở rộng sản xuất có khả năng tạo ra tỷ suất sinh lợi trên vốn cổ phần là 20%, thì chi phí cơ hội của việc nắm giữ nhiều tiền mặt thật sự là đắt. Bởi lãi suất cho tiền gửi không kỳ hạn khó lòng đạt tới 10%. Trong trường hợp tỷ suất sinh lợi của dự án thấp hơn mức chi phí sử dụng vốn trung bình WACC thì tiền mặt cũng không nên giữ lại tại doanh nghiệp, mà nên phân phối chúng lại cho các cổ đông dưới hình thức cổ tức hay mua lại cổ phần của doanh nghiệp.

Mặc dù, khi các nhà quản trị muốn gia tăng mức tiền mặt trong doanh nghiệp luôn đưa ra những lời giải thích có vẻ như rất hợp lý : tiền mặt nhiều có thể giúp doanh nghiệp linh hoạt hơn và thực hiện các phi vụ thâu tóm một cách nhanh chóng hơn. Thế nhưng bạn đừng quên rằng với các doanh nghiệp có lượng tiền mặt nhiều hơn mức cần thiết mà các lý thuyết đề nghị thì bạn phải chú ý nhiều hơn đến vấn đề đại diện.

Chi phí đại diện rất dễ xảy ra trong tình huống này, các nhà quản trị dễ dàng bị “quyến rũ” bởi sức hút của những toà biệt thự sang trọng. Do vậy, các quản trị cấp cao có thể sẽ thực hiện những vụ thâu tóm lãng phí và đầu tư vào các dự án kém hiệu quả nhằm tranh thủ tìm kiếm lợi ích cá nhân. Do đó, nếu bạn là nhà đầu tư, bạn hãy chú trọng nhiều hơn đến các doanh nghiệp xem việc dự trữ tìên mặt như một chiến lược cho các kế hoạch tái cấu trúc doanh nghiệp.

Vì rất có thể rằng động cơ bên trong đó chính là việc tư lợi của các nhà quản trị. Thậm chí trong tình huống tệ hơn, các doanh nghiệp có lượng tiền mặt quá dồi dào giúp cho các nhà quản trị giảm áp lực money.jpgcho quá trình vận hành doanh nghiệp. Họ không bị sức ép phải tính toán điều hành hợp lý nhất để đáp ứng được các nghĩa vụ ngắn hạn như các doanh nghiệp chỉ có lượng tiền mặt vừa phải theo mức cần thiết.

Nên nhớ rằng, ngoài mức tiền mặt cần thiết, bạn phải cảnh giác với bất cứ một lý giải nào cho việc tăng tiền mặt trong doanh nghiệp. Thị trường vốn luôn hiện hữu, nếu cần huy động vốn cho các dự án đầu tư tiềm năng thì thị trường vốn luôn sẵn sàng. Thị trường vốn với những yêu cầu khắt khe, vì thế doanh nghiệp sẽ thận trong hơn trước các quyết định đầu tư, và do đó sẽ giảm được chi phí đại diện.

Thay lời kết

Để bảo vệ cho danh mục đầu tư của bạn được an toàn, nhà đầu tư nên xem xét vị thế tiền mặt của doanh nghiệp qua các lý thuyết tài chính để tìm thấy một mức tiền mặt hợp lý trong doanh nghiệp. Đừng quên xem xét yếu tố dòng tiền tương lai, chu kỳ kinh doanh, các kế hoạch chi tiêu vốn, các nghĩa vụ phải trả khẩn cấp và các nhu cầu cần tiền mặt để chi trả khác khi tính toán doanh nghiệp thật sự cần lượng tiền mặt là bao nhiêu?

Cho thuê tài chính doanh nghiệp

Posted by Unknown Thứ Tư, tháng 2 03, 2010, under | No comments

Vấn đề vốn để khởi sự doanh nghiệp luôn là sự đau đầu của bất kỳ ai muốn bước chân vào thương trường. Bạn không có sẵn vốn để đầu tư vào những yếu tố như máy móc, thiết bị sản xuất, thiết bị văn phòng, tin học, viễn thông và các động sản khác ... hoặc để dành vốn vào mục đính kinh doanh khác. Cho thuê tài chính sẽ là kênh tín dụng hữu hiệu giúp bạn giải quyết những khó khăn đó. Thuê tài chính là một hình thức đang được áp dụng phổ biến ở nhiều nước trên thế giới như Mỹ, Nhật Bản, Ðức, Thụy Ðiển, Úc... Loại hình cho thuê tài chính đã được một số công ty tài chính đưa ra thị trường tài chính vào những năm cuối những năm 50 đầu những năm 60 của thế kỷ 20 với tên gọi là thuê tài chính (finance lease....).

Đầu thập kỷ 50 của thế kỷ này, giao dịch thuê mua đã có những bước nhảy vọt. Nhằm đáp ứng nhu cầu vốn trung và dài hạn, nghiệp vụ tín dụng thuê mua hay còn gọi là thuê tài chính được sáng tạo ra trước tiên ở Mỹ vào năm 1952. Sau đó nghiệp vụ tín dụng thuê mua phát triển sang châu âu và phát triển mạnh mẽ tại đó từ những năm của thập kỷ 60. Tín dụng thuê mua cũng phát triển mạnh mẽ ở Châu Á và nhiều khu vực khác từ đầu thập kỷ 70. Ngành công nghiệp thuê mua có giá trị trao đổi chiếm khoảng 350 tỷ USD vào năm 1994. Hiện nay ở Mỹ, ngành thuê mua thiết bị chiếm khoảng 25 - 30% tổng số tiền tài trợ cho các giao dịch mua bán thiết bị hàng năm của các doanh nghiệp. Nguyên nhân chính thúc đẩy các hoạt động cho thuê tài chính phát triển nhanh là do nó thể hiện hình thức tài trợ có tính chất an toàn cao tiện lợi, và hiệu quả cho các bên giao dịch.

Tại Việt Nam nghiệp vụ cho thuê tài chính hay còn gọi là tín dụng thuê mua đã được ngân hàng NN-VN cho áp dụng thí điểm bởi quyết định số 149/QĐ - ngân hàng5 ngày 17/5/1995. Đến ngày 02/05/20001 Chính phủ đã ban hành Nghị định 16/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của Công ty cho thuê tài chính.

Lợi ích của kênh tín dụng này

Cho thuê tài chính (finance leasing) là một dạng cho thuê máy móc, thiết bị và động sản. Người ta còn gọi là cho thuê thiết bị. Tiếng Anh là “leasing”. Ở Mỹ, người ta cho thuê xe hơi, máy bay, xe tải, tàu hoả, hoang tàu thuỷ và tàu thuỷ, máy vi tính, máy photocopy, máy fax,…Tập đoàn IBM tại Mỹ còn cho thuê cả máy vi tính. Hiện nay, Vietnam Airlines đã thuê máy bay của TEAC, AirFrance,…

Trong khi các doanh nghiệp đang gặp khó khăn về thủ tục thế chấp tài sản khi vay vốn ở các ngân hàng thì việc có mặt của các công ty cho thuê tài chính đã mở ra nhiều thuận lợi cho các doanh nghiệp.

Tuy nhiên vấn đề đặt ra là mặc dù có mặt đã lâu nhưng thực sự cho thuê tài chính là khái niệm còn khá mới mẻ với nhiều doanh nghiệp. Ít doanh nghiệp hiểu được rằng cho thuê tài chính là hình thức tài trợ tín dụng thông qua cho thuê các loại tài sản, máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển… là nhu cầu mà các doanh nghiệp, các nhà đầu tư mong muốn để đổi mới máy móc, thiết bị, hiện đại hóa công nghệ sản xuất kinh doanh. Đặc trưng của phương thức này là - đơn vị cho thuê là chủ sở hữu tài sản sẽ chuyển giao tài sản cho người thuê, tức là người sử dụng tài sản được quyền sử dụng và hưởng dụng những lợi ích kinh tế mang lại từ các tài sản đó trong một thời gian nhất định. Người thuê có nghĩa vụ trả một số tiền cho chủ tài sản tương xứng với quyền sử dụng và quyền hưởng dụng. Điều này cũng nói lên việc cấp tín dụng dưới hình thức cho thuê tài chính không đòi hỏi sự bảo đảm tài sản có trước, tạo cho doanh nghiệp tiếp cận hình thức cấp tín dụng mới, vừa giải tỏa được áp lực về tài sản làm đảm bảo nếu phải vay ở ngân hàng. Ngoài ra, các công ty cho thuê tài chính có thể mua tài sản của doanh nghiệp và cho thuê lại tài sản đó nếu doanh nghiệp thiếu vốn lưu động do đã tập trung vốn để đầu tư mua sắm tài sản cố định. Như vậy doanh nghiệp vừa có tài sản để sử dụng lại vừa có vốn lưu động để sản xuất kinh doanh.

Loại hình này rất thích hợp cho doanh nghiệp vừa và nhỏ bởi vì với ưu điểm không phải thế chấp tài sản, các doanh nghiệp khi thuê tài chính không bị vướng thủ tục thế chấp tài sản nếu phải vay vốn ở các ngân hàng.

Một số vấn đề chính


Cho thuê tài chính là một định chế mới được coi như là một phương thức giúp doanh nghiệp phát triển hơn trên thương trường. Khi đi thuê tài chính có hai vấn đề chính được đặt ra. Theo chế độ kế toán hiện hành, món nợ phải ghi vào bảng cân đối, còn tài sản thuê không phải ghi. Đối với số tiền mà bên thuê phải chi trả thì cơ quan thuế coi nó như một chi phí khấu hao.

Ở Mỹ và Nhật, thuê leasing có hai loại:

- Thuê chỉ để sử dụng (operate lease, thường được dịch là thuê vận hành

- Thuê tài chính (financial leasing), còn gọi là “thuê để rồi mua”. Và Ngân hàng nhà nước gọi là “hoạt động tín dụng trung và dài hạn”.

Dù leasing loại nào thì cái khác nhau chính là thời gian người thuê định sử dụng. Về hình thức pháp lý, ở Mỹ và Nhật, người ta chia ra hai loại hợp đồng:

1/ Hợp đồng không nâng đỡ người cho thuê (non leverage lease) có hai bên ký là người cho thuê và người thuê. Một bên mua thiết bị cho bên kia thuê; bên kia cam kết sẽ trả tiền khi sử dụng.
Bên thuê lựa chọn thiết bị với một nhà sản xuất, bàn bạc về giá cả, điều kiện bảo hành, giao nhận và ký hợp đồng mua bán. Bên cho thuê trả tiền mua thiết bị bằng tiền của mình hay đi vay.

2/ Hợp đồng có nâng đỡ người cho thuê (leverage lease)có ba bên ký kết và mỗi bên có thể có nhiều người khác can dự. Hợp đồng này dành cho các thiết bị đắt tiền. Bên thuê chọn thiết bị, bàn bạc với nhà sản xuất về giá cả, bảo hành, giao hàng. Bên cho thuê trả khoảng 20% trị giá thiết bị và trở thành chủ nhân của thiết bị đó. Bên thuê có thể rủ thêm những người khác để trả số 20% kia và được hưởng các ưu đãi thuế liên quan đến thiết bị. Thuế sẽ được căn cứ trên tổng giá trị tài sản trong khi họ mới chỉ bỏ ra khoảng 20% tổng giá trị thiết bị. Đây là sự nâng đỡ dành cho bên cho thuê.

Bên thứ ba gồm một hay nhiều người cho vay, gọi là nhà đầu tư, như các ngân hàng, các định chế tài chính. Họ sẽ bỏ ra số tiền mua thiết bị còn lại. Khoản cho vay này được bảo đảm bằng bên cho thuê thế chấp thiết bị kia hay nhận thẳng tiền cho thuê thiết bị từ bên thuê.

Trường hợp mỗi bên có nhiều người tham gia, họ sẽ cử người đại diện gọi là trustee và ký hợp đồng với nhau để thực hiện. Bên thuê có khi cũng phải có người bảo lãnh để được thuê. Người bảo lãnh có thể nằm trong tổ hợp của bên thuê hay là một ngân hàng độc lập ở bên ngoài.

Trong loại hợp đồng đầu, có bốn yếu tố được thực hiện bởi ba hay bốn thành phần là bên cho thuê, bên đi thuê, nhà sản xuất và bảo trì (hai cái này có thể là một hoặc hai thành phần). Trường hợp sau thì có thêm hai thành phần là nhóm người cho vay và nhà bảo lãnh của bên thuê.

Tóm lại, hoạt động cho thuê tài chính là một loại hình tín dụng có nhiều ưu điểm, đặc biệt phát huy hiệu quả trong hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa đầu tư chiều sâu, máy móc, thiết bị… để mở rộng sản xuất. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa, thường hạn chế về vốn tự có, uy tín cũng như tài sản thế chấp dẫn đến khó tiếp cận với nguồn vốn tài chính, nên đi thuê máy móc, thiết bị của công ty cho thuê tài chính đã được nhiều doanh nghiệp thực hiện.

Hiện nay, các dịch vụ tài chính ngân hàng trên thị trường cạnh tranh khá gay gắt, nhiều công ty cho thuê tài chính đã có những phương thức khác nhau để thu hút khách hàng. Theo ông Trần Văn Hưng, giám đốc một công ty cho thuê tài chính lớn của Việt Nam nói: “Với ưu điểm nổi bật của cho thuê tài chính, chúng tôi tin tưởng sẽ là bạn đồng hành của nhiều doanh nghiệp. Hiện nay, chúng tôi đã thiết lập quan hệ với các nhà cung ứng, các khu công nghiệp, các trung tâm thẩm định, bảo hiểm… những đơn vị không thể thiếu khi cho thuê tài chính để hoạt động chặt chẽ, hiệu quả hơn. Mặt khác, khi thực hiện thuê tài chính, doanh nghiệp vẫn được quyền tự do lựa chọn loại máy móc thiết bị thuê, nhà sản xuất, nhà cung ứng, đặc tính kỹ thuật, cách thức và thời gian giao nhận, lắp đặt và bảo hành, giá cả tài sản thuê. Tùy từng thời kỳ, mặt bằng lãi suất trên thị trường, hiệu quả của dự án và uy tín của khách hàng, chúng tôi sẽ có mức lãi suất cho thuê ưu đãi và hợp lý”.

Mặc dù công ty cho thuê tài chính có tác dụng cho các doanh nghiệp như vậy nhưng hoạt động công ty tài chính thời gian vừa qua vẫn còn nhiều hạn chế, chưa phát huy được khả năng, trong khi nhu cầu về thuê máy móc, thiết bị của doanh nghiệp nhỏ và vừa còn rất lớn. Nguyên nhân của hạn chế này là do môi trường pháp lý về công ty tài chính chưa đầy đủ, chưa hoàn thiện. Thời gian tới, khi cơ chế chính sách về hoạt động cho thuê tài chính được hoàn thiện, các doanh nghiệp cần chủ động “đón đầu” để phát huy tối đa lợi thế của kênh tín dụng này.

Khoảng trống của thị trường tài chính?

Posted by Unknown Thứ Tư, tháng 2 03, 2010, under | No comments

Dự thảo sửa đổi bổ sung Luật Các Tổ chức tín dụng gần đây nhất (lần 8) đã quy định các NHTM không được cho vay đầu tư, kinh doanh chứng khoán, khiến nhiều người băn khoăn vì những bất cập.

Luật Các Tổ chức tín dụng (TCTD) năm 1997 chưa có điều khoản cụ thể nào liên quan đến việc NHTM cấp tín dụng cho đầu tư, kinh doanh CK (cho vay CK). Khi TTCK VN được thành lập và phát triển thì các NH coi việc cho vay CK như một hình thức cấp tín dụng thương mại bình thường khác.
Thời kỳ 6 tháng cuối năm 2006 và 6 tháng đầu năm 2007, mức cho vay đầu tư CK (cả niêm yết và OTC) của các NH đã tăng rất nhanh (một số NHTMCP tỉ lệ cho vay CK lên tới trên 50%/tổng dư nợ). Đây cũng chính là thời kỳ TTCK diễn biến phức tạp, tăng trưởng rất nóng.
Trước xu hướng vốn tín dụng tăng trưởng khá nóng, việc các NHTM cho vay để đầu tư, kinh doanh CK có nguy cơ rủi ro rất cao do TTCK đang điều chỉnh theo xu hướng giảm. Trong khi đó, việc thu thập thông tin từ thị trường để đánh giá, quản trị rủi ro còn bất cập, tháng 5.2007, NHNN đã có Chỉ thị 03 khống chế dư nợ cho vay, chiết khấu chứng từ có giá (GTCG) để đầu tư, kinh doanh CK ở mức dưới 3%/tổng dư nợ của các TCTD.
Tháng 2.2008, NHNN có Quyết định 03 quy định tổng dư nợ cho vay, chiết khấu GTCG để đầu tư, kinh doanh CK không vượt quá 20% VĐL của TCTD. Quy định này đến nay vẫn còn hiệu lực thi hành.
Sau hơn 1 năm TTCK liên tục điều chỉnh giảm sâu, cộng với việc thanh tra, giám sát chặt chẽ của NHNN, dư nợ cho vay CK của các NHTM đến giữa năm 2008 đã giảm gần một nửa so với thời điểm cuối năm 2007. Năm 2008 cũng là năm một số NHTM CP gặp rủi ro vì khách hàng vay kinh doanh CK không thể trả nợ đến hạn và giá CK mà NH giải chấp thấp hơn nhiều thời điểm cho vay.
Phải cấm để hạn chế rủi ro?
Trong mục "Các hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt động của TCTD" (dự thảo Luật Các TCTD) đã cấm NHTM không được cho vay đầu tư, kinh doanh CK. Quy định này mặc dù được nhiều ý kiến ủng hộ vì cho rằng theo thông lệ quốc tế tốt nhất thì hoạt động cho vay đầu tư CK là một hoạt động môi giới chứ không phải hoạt động NH do tính chuyên biệt và có rủi ro cao của hoạt động này, việc cho vay đầu tư CK thường chỉ nên được thực hiện bởi các Cty môi giới CK hoặc Cty con của các Cty môi giới CK.
Đây cũng chính là quan điểm đã được ông Fiach Mc Cane - nguyên là Trưởng bộ phận nghiên cứu của NH Đầu tư SLB (Đức) tại Nhật Bản, Giám đốc nghiên cứu của Cty Vinacapital đề cập đến trong một bài viết mà NHNN đã tham khảo khi chuẩn bị ban hành Chỉ thị 03 năm 2007. Quan điểm của ông Fiach Mc Cane hiện còn để lại dấu ấn khá rõ trong quy định không cho phép các NHTM cho vay CK của dự thảo Luật Các TCTD lần này.
Tuy nhiên, cũng có những ý kiến băn khoăn vì những bất cập của quy định trong hai vấn đề: Thứ nhất: Định chế tài chính nào ở VN sẽ cấp tín dụng cho TTCK trong những năm tới khi mà ở VN chưa có mô hình NH đầu tư mà mới chỉ có mô hình NHTM đa năng? Nếu cho rằng việc cấp tín dụng này là của các Cty con, Cty liên kết thì các Cty này ở VN cũng không đủ năng lực để thực hiện. Như vậy, nếu dự thảo Luật Các TCTD được thông qua thì sẽ có một khoảng trống về hành lang pháp lý cho hoạt động cấp tín dụng cho TTCK.
Thứ hai: Hầu hết các nước trên thế giới không cấm NHTM cho vay CK và không quy định tỉ lệ cho vay CK/tổng dư nợ. Họ giám sát và hạn chế bằng các yêu cầu về quản lý rủi ro là chính. Các NHTM tự chịu trách nhiệm để quản trị rủi ro cho vay CK của mình. Vậy việc cấm các NHTM VN và chi nhánh NH nước ngoài ở VN cho vay CK liệu có phù hợp với thông lệ và có độ mở cho sự phát triển và hội nhập của các NHTM VN, trong thời gian tới hay không?
Sẽ ảnh hưởng đến TTCK
Đến giữa năm 2008, tổng dư nợ cho vay CK của các NHTM còn khoảng gần 6.600 tỉ đồng. Số dư nợ này đến nay chắc cũng chưa tăng nhiều vì từ đó đến đầu năm 2009 các NH rất hạn chế cho vay CK. Giả sử các NHTM cho vay hết hạn mức 20%/VĐL (chứ không phải 3%/VĐL như một số báo đã đưa tin gần đây) thì với mức VĐL hiện tại số vốn tối đa các NHTM có thể cho vay CK lên tới 7.000 tỉ đồng.
Nếu dự thảo sửa đổi Luật Các TCTD được Quốc hội thông qua vào đầu năm sau như dự kiến thì tác động của việc các NHTM không được cho vay CK sẽ tác động rất lớn đến thị trường (cho dù các cơ quan quản lý cũng phải có lộ trình để các NHTM rút dần dư nợ như thời gian thực hiện Chỉ thị 03) làm cho nguồn cung CK tăng lên trong khi sức cầu của thị trường có hạn bởi khách hàng (NĐT) nhiều khả năng phải bán CK để có tiền trả nợ vay.
Đó là chưa kể với việc thông qua Luật Các TCTD vào thời điểm này, NHNN đã gián tiếp gửi tới TTCK một thông điệp mang sự cảnh báo rằng "TTCK còn rất nhiều rủi ro" thì làm sao giúp NĐT tăng thêm niềm tin để đổ vốn vào giúp TTCK sớm hồi phục?
Ngoài ảnh hưởng đối với thị trường và các NĐT, các NHTM cũng bị ảnh hưởng không nhỏ khi mà cho vay CK đang là một hoạt động kinh doanh của NHTM. Nếu quản trị rủi ro tốt thì đây vẫn là phân khúc thị trường đem lại nguồn lợi nhuận ổn định (như việc cho vay kinh doanh CK theo phương thức T+3 hiện nay mà các NHTM đang làm)... Đây chính là những bất cập mà những nhà soạn thảo luật nên cân nhắc trước khi trình Quốc hội thông qua.
Để kết thúc bài báo này, người viết xin mượn ý kiến của ông Qiao Yide - Phó Tổng thư ký Hội đồng Xúc tiến phát triển kinh tế Yangtze Delta - Shanghai - Hongkong (lưu vực sông Dương Tử - Thượng Hải - Hồng Kông) phát biểu tại bàn tròn: "Củng cố hệ thống tài chính toàn cầu: Điều tiết và đổi mới" trong khuôn khổ Hội nghị doanh nghiệp Châu Á lần thứ 19 của Asia Society (4.2009) tại TPHCM:
 "Trong một thế giới mà dòng vốn di chuyển nhanh, cần cải tiến, áp dụng sáng tạo các sản phẩm tài chính. Trung Quốc đang CK hoá các loại tài sản một cách mạnh mẽ hơn. Đừng thấy những gì xảy ra ở Mỹ (mua bán sản phẩm phái sinh vượt tầm kiểm soát) mà sợ quá, nên tránh xa, không dám làm. Vấn đề là sử dụng công cụ tài chính như thế nào để các công cụ đó hiệu quả và tạo ra niềm tin".   

Kế toán trách nhiệm: Vũ khí của công ty lớn

Posted by Unknown Thứ Tư, tháng 2 03, 2010, under | No comments

Mô hình quản lý kế toán trách nhiệm được xem là vũ khí của các công ty lớn, giúp phát huy tối đa nguồn lực trong doanh nghiệp, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh.

Hãy bắt đầu thuật ngữ "kế toán trách nhiệm" bằng một ví dụ về Tập đoàn Abbott. Thành lập năm 1888, Abbott hiện có giá trị vốn hóa trên 80 tỉ USD, phục vụ khách hàng trên 130 quốc gia với hơn 68.000 nhân viên. Tập đoàn đang hoạt động trên 5 lĩnh vực chính: sản phẩm dinh dưỡng cho người lớn và trẻ em, dược phẩm, sản phẩm chuyên dùng trong y tế, hóa chất và sản phẩm nông nghiệp. Điều này đòi hỏi Abbott phải sử dụng mô hình quản lý kế toán trách nhiệm và tận dụng quá trình chuyển giá cho các giao dịch mua bán nội bộ của Tập đoàn.

Kế toán trách nhiệm là gì?

Kế toán trách nhiệm được hiểu là hệ thống thu thập và báo cáo các thông tin về doanh thu và chi phí theo nhóm trách nhiệm. Các cấp quản lý sẽ phải chịu trách nhiệm về lĩnh vực hoạt động của mình, của thuộc cấp và tất cả các hoạt động khác thuộc trách nhiệm của họ.

Cấu trúc của một tổ chức phát triển khi các mục tiêu, trình độ công nghệ, đội ngũ nhân viên thay đổi. Quá trình này thường diễn ra theo hướng từ quản lý tập trung sang quản lý phân quyền. Abbott đã nhận ra nhu cầu của việc phân quyền; tầm hoạt động đa quốc gia của Tập đoàn cho thấy các cấp quản lý ở các khu vực khác nhau trên thế giới có khả năng phát huy tối đa nguồn lực của doanh nghiệp. Một hệ thống kế toán trách nhiệm được thiết kế tốt phải thiết lập được các trung tâm trách nhiệm trong một tổ chức. Trung tâm trách nhiệm được định nghĩa như một đơn vị trong tổ chức có toàn quyền kiểm soát chi phí, doanh thu và đầu tư. Các trung tâm trách nhiệm có thể được phân loại như sau:

Trung tâm chi phí:
Chịu trách nhiệm về chi phí đầu vào của tổ chức. Trách nhiệm tài chính của trung tâm này là kiểm soát và báo cáo chỉ riêng về chi phí. Một trung tâm chi phí có thể có nhiều đơn vị chi phí tùy thuộc vào việc cân nhắc về lợi ích và chi phí của việc vận hành, kiểm soát. Phân tích chênh lệch dựa trên chi phí định mức và các kế hoạch ngân sách được theo dõi và điều chỉnh liên tục chính là phương thức điển hình của việc đo lường hiệu quả hoạt động của trung tâm chi phí.

Trung tâm doanh thu: Người quản lý của trung tâm doanh thu chỉ chịu trách nhiệm cho việc tích lũy doanh thu và không phải kiểm soát việc thiết lập giá bán hoặc dự toán ngân sách chi phí. Trên thực tế, một trung tâm thuần túy về doanh thu không tồn tại. Các cấp quản lý thường vẫn phải làm kế hoạch và kiểm soát một số chi phí thực tế phát sinh trong trung tâm doanh thu.

Trung tâm lợi nhuận: Một trung tâm trách nhiệm được gọi là trung tâm lợi nhuận khi người quản lý chịu trách nhiệm cho cả chi phí (đầu ra) và doanh thu (đầu vào) và chênh lệch giữa đầu ra và đầu vào chính là lợi nhuận. Các trung tâm lợi nhuận không chỉ là các công ty chuyên về phân phối trong một tập đoàn hoặc các cửa hàng bán lẻ. Ví dụ, một ngân hàng có thể xem mỗi phòng ban là một trung tâm lợi nhuận.

Trung tâm đầu tư: Trung tâm đầu tư cũng tương tự như trung tâm lợi nhuận, chịu trách nhiệm trong việc tạo ra doanh thu, lập kế hoạch và kiểm soát chi phí. Ngoài ra, người quản lý của trung tâm đầu tư có thẩm quyền điều phối, sử dụng, đầu tư tài sản để tìm kiếm mức lợi nhuận cao nhất. Sự thành công của nó được đo lường không chỉ bởi số lợi nhuận tạo ra mà là lợi nhuận trong mối tương quan với tổng vốn đầu tư, tức khả năng sinh lợi của đồng vốn.

Vận dụng kế toán trách nhiệm trong thực tế

Cần hiểu rằng, mô hình quản lý kế toán trách nhiệm chỉ phù hợp với các công ty, tập đoàn có quy mô lớn, hoạt động lâu đời, tốc độ tăng trưởng nhanh, lãnh đạo công ty tin tưởng vào việc phân quyền cho lãnh đạo cấp dưới, hệ thống kiểm soát và quản lý hoạt động hiệu quả, đảm bảo toàn bộ guồng máy vận động trơn tru. Hiện nay, nhiều công ty lớn của Việt Nam đã áp dụng mô hình này. Việc sử dụng kế toán trách nhiệm sẽ có những lợi ích như sau:

Phân quyền quản lý theo nhóm trách nhiệm: Việc phân chia các trung tâm trách nhiệm sẽ tạo ý tưởng cho lãnh đạo công ty trong việc thiết lập một mô hình cơ cấu tốt nhất cho tổ chức, phân chia trách nhiệm quản lý lập kế hoạch, phân tích, báo cáo, tách bạch theo nhóm hoạt động nhằm phát huy tối đa nguồn lực và thuận tiện cho quản lý. Một tập đoàn sản xuất xe hơi có thể xác định các nhà máy lắp ráp là các trung tâm chi phí, công ty phân phối là trung tâm doanh thu, các công ty con trực thuộc tập đoàn là các trung tâm lợi nhuận; công ty mẹ đầu tư vào các công ty con và công ty bất động sản phát triển hệ thống cứa hàng, chi nhánh trực thuộc là các trung tâm đầu tư.

Tận dụng các kỹ thuật về chuyển giá: Chuyển giá là quá trình chuyển giao lợi nhuận được thiết lập trên cơ sở giao dịch hàng hóa hoặc dịch vụ trong nội bộ các trung tâm trách nhiệm của tập đoàn. Trong báo cáo tài chính hợp nhất, các giao dịch nội bộ sẽ được loại trừ kể cả các khoản doanh thu, chi phí và lợi nhuận nội bộ. Tuy nhiên, căn cứ vào những khác biệt trong chính sách thuế, chính sách ưu đãi đầu tư, phí hải quan, chi phí bảo hiểm, vận chuyển, thuế xuất nhập khẩu, chính sách kiểm soát tỉ giá hối đoái… mà các chính sách chuyển giá linh hoạt giữa các trung tâm trách nhiệm sẽ được vận dụng để tối ưu hóa lợi nhuận cho tập đoàn.

Tận dụng kỹ thuật quản trị theo mục tiêu: Kế toán trách nhiệm dựa trên quản trị mục tiêu, các kỹ thuật tài chính về lập dự toán ngân sách cần được sử dụng, ngân sách cần được giám sát và theo dõi liên tục giữa kế hoạch với thực tế. Do đó cũng đòi hỏi kỹ thuật phân tích các khoản biến động như chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung, chi phí bán hàng, chi phí quản lý, chi phí tài chính, phân tích biến động doanh thu….

Tất cả các trung tâm trách nhiệm sẽ phải cùng làm kế hoạch ngân sách, cân đối với kế hoạch kinh doanh, kế hoạch sử dụng nguồn lực. Việc lập kế hoạch cũng cần phải được thiết kế chi tiết cho các khoản giao dịch nội bộ để tiến hành loại trừ, thuận tiện cho việc tổng hợp thành một kế hoạch hợp nhất của tập đoàn.

Vai trò của cong người trong xây dựng mô hình chống rủi ro tài chính

Posted by Unknown Thứ Tư, tháng 2 03, 2010, under | No comments

Dường như sự khủng hỏang kinh tế ngày nay là một bản cáo trạng trong các lĩnh vực bí ẩn của các mánh khóe tài chính - đó là một sự pha trộn của toán học, thống kê và và thuật toán máy tính. Các chuyên gia tài chính đã sáng chế không chỉ các loại chứng khoán cầm cố mới mẽ lạ lẫm đã được chứng minh là rất phức tạp phiền hà, mà còn là các mô hình toán học về rủi ro cho rằng các loại chứng khoán này là an toàn. Và điều gì đã xảy ra ?
Theo các chuyên gia và các nhà kinh tế học, các mô hình này đã thất bại trong việc đuổi kịp với sự phát triển bùng nổ của các loại hình chứng khoán phức tạp, mạng lưới các rủi ro rắc rối khó hiểu và các khía cạnh của nguy cơ tiềm tàng của nó.
Họ cho rằng sự thất bại lớn hơn chính là nhân tố con người trong cách những con người này hiểu, áp dụng cũng như quản lý các mô hình rủi ro. Một vài nhà phân tích tài chính định lượng uy tín, được biết đến như các công trình sư tài chính, đã bắt đầu chỉ ra các dấu hiệu cảnh báo từ nhiều năm trước. Nhưng trong khi các thị trường tài chính đang tăng vọt, các động cơ thúc đẩy trên Wall Street là chạy đua theo lợi nhuận bằng cách mua bán càng nhiều loại chứng khoán tinh vi càng tốt, chồng chất thêm các món nợ và đặt cược ngày càng lớn.
Andew W. Lo, một nhà kinh tế học và là giáo sư môn tài chính của Trường quản trị Sloan trực thuộc học viện kỹ thuật Massachusetts (MIT) cho biết: “Sự cải tiến có thể trở thành một trò chơi mạo hiểm, công nghệ đã đi trước khả năng sữ dụng chúng một cách có trách nhiệm của chúng ta.”
Sự cải tiến ngoài tầm kiểm soát đó được phản ánh vào các loại chứng khoán được dự định để phân tán rủi ro ra rộng hơn bằng cách sữ dụng các công cụ tài chính gọi là chứng khoán phái sinh. Ví dụ như là nghiệp vụ trao đổi chống vỡ nợ tín dụng (credit-default swaps) ban đầu được tạo ra để đảm bảo cho các nhà đầu tư trái phiếu của các công ty blue-chip (các công ty uy tín, lâu năm và có lợi nhuận ổn định) tránh khỏi rủi ro về mất khả năng trả nợ của các công ty này. Trong vài năm gần đây, các hợp đồng trao đổi đã được sữ dụng rất nhiều để đảm bảo cho mọi loại công cụ tài chính, bao gồm vô số các chứng khoán thế chấp dưới chuẩn.
Những việc trao đổi này là hợp đồng giữa hai nhà đầu tư- mà tiêu biểu là các ngân hàng, các quỹ đầu cơ và các tổ chức khác – và nó không được mua bán trên các sở giao dịch. Giá trị thị trường của thị trường trao đổi chống vỡ nợ tín dụng đã tăng nhanh chóng mặt, đạt khoảng 55 ngàn tỷ USD.
Mặc dầu sự trao đổi chống vỡ nợ tín dụng ban đầu định phân tán rủi ro, nhưng nó đã làm cuộc khủng hoảng tín dụng thêm trầm trọng bởi vì thị trường không được điều hòa, bị che khuất và đầy các rủi ro của các bên đối ứng (đó là các rủi ro này được tạo ra do các ngân hàng hay các công ty không đủ khả năng thực hiện các điều khoản thanh toán, và các giao dịch với các công ty này sẽ phải gánh chịu nhiều thiệt hại)
Thị trường cho các các hợp đồng trao đổi chống vỡ nợ tín dụng là trung tâm của sự đổ vỡ ngân hàng và giải cứu ở Wall Street, và các công cụ tài chính này là hiện thân của mọi loại rủi ro mà khó có thể tính toán bằng các công thức toán học.
Leslie Rahl, giám đốc công ty Capital Market Risk Advisor- một công ty tư vấn quản lý rủi ro, tiết lộ rằng: “Sự phức tạp, sự minh bạch, tính thanh khoản và đòn bẩy tài chính đã đóng một vài trò cực kỳ lớn trong cuộc khủng hoảng này, và đó là những thứ nhìn chung chưa được tính toán trong rủi ro định lượng”
Dường như toán học, thống kê và các mô hình thuật toán đã thiếu sự lường trước về rủi ro cho vay của các khách hàng tín dụng cá nhân. Trong vài năm gần đây, sự chứng khoán hóa thị trường cầm cố, với các khoản vay được bán rẻ mạt và lẫn lộn trong vô số các khoản chứng khoán cầm cố, đã thúc đẩy người cho vay mượn đến các hệ thống bao tiêu mua cổ phiếu tự động một cách nhanh chóng, mà hệ thống này nương tựa chủ yếu trên các mô hình ghi nợ tín dụng được vi tính hóa thay cho sự quyết định của nhân tố con người.
Do đó người cho vay mượn đã không có đủ động cơ dể dành nhiều thời gian cho việc tìm hiểu cẩn thận khả năng hoàn trả của những người vay mượn cá nhân. Raghuram G. Rajan, một giáo sư tại Đại học Chicago cho rằng: “Nếu các động cơ và các hệ thống thay đổi, những dữ liệu cứng có thể ít ý nghĩa hơn là nó đã từng như vậy hay là những cái nào đó khác mà nó đã từng trước kia. Nguy cơ ở đây là mô hình kiểu mẫu trở nên quá máy móc”
Mr. Rajan, nguyên là nhà kinh tế trưởng tại Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), đã chỉ ra trong một bài báo mà ông là đồng tác giả với Amit Seru,một đồng nghiệp của ông tại đại học Chicago,có nhan đề “Sự phá sản của các mô hình dự đoán thất bại”. Bài báo này đã phân tích về các khoản cho vay dưới chuẩn được phát hành từ 1997 đến 2006. Nghiên cứu của họ đã kết luận rằng các phương pháp định lượng đã đánh giá thấp khả năng vỡ nợ của những người vay dưới chuẩn mà được tờ báo gọi là “Sự phá sản mang tính hệ thống của các mô hình vỡ nợ”
Một bài báo gần đây của 4 nhà kinh tế thuộc Cục dự trữ liên bang Mỹ (Fed) - “Những ý nghĩa của cuộc khủng hoảng cho vay dưới chuẩn”, đã tìm ra một nguyên nhân khác. Họ đã xem xét  nhiều bản báo cáo nghiên cứu được công bố bởi các nhà phân tích và các nhà kinh tế của Wall Street, và hỏi tại sao các chuyên gia Wall Street thất bại trong việc dự đoán làn sóng tịch thu tài sản thế chấp của các khoản vay dưới chuẩn trong năm 2007 và 2008. Các nhà kinh tế của Fed kết luận rằng các mô hình rủi ro được sữ dụng bởi các nhà phân tích Wall Street đã dự đoán đúng sự rớt giá từ 10 đến 20 % của bất động sản sẽ đẩy các loại chứng khoán cầm cố vào tình trạng hiểm nghèo. Nhưng cũng chính các nhà phân tích cho rằng khả năng đó là rất khó xảy ra.
Sự thất bại của các chuyên gia phân tích phố Wall trong việc thể hiện làm thế nào các mô hình có thể chính xác đến vài con số thập phân, song lại hoàn toàn phá sản. Theo bài báo đó, các nhà phân tích đã bám níu lấy lời cầu nguyện lạc quan một cách ngoan cường rằng giá nhà danh nghĩa ở Mỹ đã không giảm trong nhiều thập kỷ mặc dầu giá nhà đã rớt trên toàn quốc để điều chỉnh cho lạm phát trong năm 1970, và có nhiều khu vực có giá nhà bị rớt với quy mô lớn trong nhiều năm qua.
Bên cạnh đó, sự hình thành bong bóng nhà đất đã diễn ra khá là suôn sẻ. Cho đến năm 2003, giá nhà đã tăng cùng với số lao động được tuyển dụng, thu nhập, và các mô hình di trú, nhưng sau đó nó xuất phát từ các yếu tố kinh tế cơ bản.
Paul S. Willen, một nhà kinh tế của Fed ở Boston đã nhận định các mô hình của Wall Street bao hàm quá nhiều ý tưởng viễn vông về giá nhà. Nhưng ông ta cho biết thêm là thật sự rất khó dự đoán xu hướng giá của tài sản. Ông nhận xét: “ Giá cả của tài sản, ví dụ như nhà cửa hay cổ phiếu, phản ánh không chỉ là niềm tin của bạn vào tương lai, mà bạn còn đánh cược vào niềm tin của những người khác. Đó là thang bậc của niềm tin – là những yếu tố hành vi- thì nó trở nên quá sức đối với các mô hình”
Thật sự là sự không chắc chắn về các yếu tố hành vi cùng với sự phức tạp không ngừng của thị trường tài chính đã giải thích sự phá sản của quản trị rủi ro. Các mô hình định lượng có nguồn gốc từ học thuật và thường là các môn khoa học tự nhiên. Trong nghiên cứu học thuật, trọng tâm là các vấn đề có thể giải quyết, chứng minh và công bố- chứ không phải là các thách thức khó khăn hỗn độn. Trong khoa học, các mô hình xuất phát từ các dòng phân tử ở thể lỏng hay khí, điều mà thích nghi với các quy luật vật lý rõ ràng, chặt chẽ.
Không phải xuất thân từ ngành tài chính, Emanuel Derman là một nhà vật lý đã trở thành giám đốc tài chính ở Goldman Sachs, là một nhà phân tích tài chính định lượng và là tác giả của vài mô hình tài chính và cuốn sách “Cuộc đời của tôi như là một nhà phân tích tài chính định lượng- sự phản chiếu của vật lý và tài chính” (Willey, 2004). Trong một bài báo sẽ được xuất bản vào năm tới trong một tạp chí chuyên ngành, Derman đã viết rằng: “Làm lộn xộn cái mô hình này trong thế giới ngày nay là đi theo một thảm họa tương lai đã được định bởi niềm tin con người tuân theo các quy luật toán học”
Tuy thế, trong một cuộc phòng vấn, Derman- vị giáo sư tại đại học Columbia- cho rằng đổ lỗi cho các mô hình vì các khuyết điểm của nó dường như là không chính xác. Ông nói: “Các mô hình là một công cụ của niềm đam mê hơn là nguyên nhân của cuộc khủng hoảng”
Còn Richard Lindsey, giám đốc của Callcott Group-một tập đoàn tư vấn định lượng, lại tin là trong lúc thị trường bùng nổ các thị trường mới có khuynh hướng đi nhanh hơn con người và các hệ thống kỹ thuật hỗ trợ nó. Các hệ thống hỗ trợ đó bao gồm các mô hình giá và rủi ro, sự tinh thông của các bộ phận đầu não và sự am hiểu quản trị về các công cụ tài chính. Đó là những gì đang xảy ra trong các thị trường chứng khoán cầm cố và tín dụng phái sinh.
Lindsey nghĩ là các mô hình tốt hơn được áp dụng một cách khôn ngoan hơn có lẻ sẽ giúp tình hình tốt hơn và có được sự thống nhất chung của quản trị cấp cao. Ông lưu ý các thị trường chứng khoán cầm cố đã phát triển một cách nhanh chóng và sinh ra nhiều lợi nhuận trong một thập kỷ vừa qua. Ông Lindsey, cựu kinh tế trưởng của Ủy ban chứng khoán và đối hoái nói: “Nếu bạn đang tạo ra lợi nhuận cao, thì tôi đảm bảo với bạn là ở đó có rủi ro cao dù thậm chí là bạn không thấy nó”.
Trong số các nhà phân tích tài chính định lượng, một vài người đã nhận ra được cơn bão đang hình thành. Ông Lo, giám đốc của phòng thí nghiệm kỹ thuật tài chính trực thuộc học viện kỹ thuật Massachusett (MIT), là đồng tác giả của bài báo được giới thiệu tại hội nghị của Văn phòng nghiên cứu kinh tế quốc gia vào tháng 10 năm 2004. Bài báo nghiên cứu đó đã cảnh báo sự gia tăng rủi ro hệ thống trong các thị trường tài chính và đặc biệt quan tâm đến thanh khoản tiềm năng, đòn bẩy tài chính, và rủi ro các bên đối ứng từ các quỹ đầu cơ.
Trong hai năm tiếp sau đó, Lo cũng đã có những bài thuyết trình trước các quan chức của Cục dự trữ liên bang Mỹ (Fed) ở New York và Washington, trước khi có bài thuyết trình trước Ngân hàng Trung Ương châu Âu ở Brussels. Ông cho biết bài nghiên cứu được các nhà kinh tế và viện sĩ đón nhận nồng nhiệt. Ông cũng đã kêu gọi: “Về khía cạnh công nghiệp, nó đang bị gạt bỏ”.
Ông cho hay những câu trả lời gạt bỏ một cách thẳng thừng chẳng có gì là đáng ngạc nhiên bởi vì Wall Street đang chạy theo lợi nhuận trong một giai đoạn thuận lợi. Con đường tới một sự thận trọng hợp lý bao gồm không chỉ là mô hình rủi ro tốt hơn, mà còn có nhiều quy tắc hơn. Cũng giống như những người khác, Lo đề cử điều kiện vốn cao hơn cho các ngân hàng và quyền sữ dụng các ngân hàng đối hoái cho các giao dịch các loại chứng khoán mới mẽ lạ lẫm, để từ đó giá cả và các rủi ro có thể thấy được rõ ràng hơn. Bất cứ quỹ đầu cơ nào có tài sản trên 1 tỷ USD nên bị bắt buộc báo cáo các tài sản đang nắm giữ của họ cho cơ quan chức năng.
Các quy tắc tài chính nên được xem tương tự như các điều khoản phòng ngừa hỏa hoạn trong luật xây dựng. Khả năng các tòa nhà bị cháy là rất ít, nhưng luật pháp bắt buộc phải trang bị hệ thống tưới nước chữa cháy trên trần nhà, hệ thống chữa cháy và các dụng cụ thoát khỏi hỏa hoạn.
“Chúng ta học bài học theo cách khắc nghiệt rằng những hậu quả có thể là rất bi thảm; thậm chí nếu điều đó, theo thống kê, là không có thực.”

Quản lý dòng tiền vượt bão khủng hoảng

Posted by Unknown Thứ Tư, tháng 2 03, 2010, under | No comments

Tại buổi nói chuyện chuyên đề “Chiến lược kinh doanh dành cho doanh nghiệp Việt Nam trong và sau suy thoái” diễn ra cuối tháng 4 vừa qua, Giáo sư John Behzad, chuyên gia tài chính, quản trị của trường Đại học California State University (Mỹ), đã chia sẻ một số kinh nghiệm với các doanh nghiệp trong ngành điện tử. Dưới đây là một số ghi nhận về vấn đề kiểm soát dòng tiền và quản lý chi phí của doanh nghiệp trong thời khủng hoảng.

Kiểm soát dòng tiền

Giáo sư Behzad cho rằng, trong khủng hoảng, doanh nghiệp giống như một người bị nhức đầu. Đi khám bệnh, lúc đầu bác sĩ cho uống một viên Aspirin, nhưng chỉ điều trị được triệu chứng, vì trong đầu người đó có một khối u và cần có bác sĩ phẫu thuật não để mổ lấy khối u.

Làm xét nghiệm trước khi mổ, bác sĩ phát hiện người này có vấn đề ở tim, do vậy phải cần đến bác sĩ tim mạch. Tại phòng khám tim mạch lại thấy có vấn đề ở gan… Có nghĩa bệnh nhân bị nhiều bệnh cùng một lúc mà phải có nhiều chuyên gia mới chữa trị được.

Cũng vậy, khủng hoảng tài chính, kinh tế... cùng một lúc tác động lên doanh nghiệp, giống một người bệnh gặp một lúc nhiều chứng bệnh nghiêm trọng. Doanh nghiệp phải có sự chuẩn bị để đối phó với những tác động của cuộc khủng hoảng.

Vậy, doanh nghiệp phải làm gì? Theo Giáo sư Behzad, vấn đề doanh nghiệp phải đối mặt lúc này là quản lý dòng tiền. Vòng quay của tiền mặt rất quan trọng. Dù doanh nghiệp có rất nhiều tài sản, giá trị của công ty rất lớn, nhưng hàng tồn kho không bán được, nợ khách hàng chưa thanh toán... thì không có tiền mặt để trang trải các chi phí hàng ngày, hàng tháng như tiền điện, nước, tiền lương.

Trước hết, doanh nghiệp cần lưu ý đến việc lưu chuyển tiền tệ trong ngắn hạn. Lúc này, phải tính đến hiệu suất của doanh nghiệp, cụ thể một đồng tài sản thì sẽ tạo ra bao nhiêu phần trăm hiệu quả. Doanh nghiệp có thể làm tăng hiệu suất đó bằng cách giảm hàng tồn kho và quản lý dòng vốn tốt.

Điều quan trọng thứ hai là dùng đòn bẩy tài chính, tức là dùng đòn bẩy nợ để tạo ra hiệu quả. Tuy nhiên, tỷ lệ nợ càng lớn thì rủi ro càng cao, vì vậy cần tính toán tỷ lệ nợ bao nhiêu là vừa.

Một vấn đề nữa là quản lý công ty, quản lý tài chính. Doanh nghiệp phải có ngân quỹ bao nhiêu và sử dụng như thế nào để tạo ra thanh khoản. Ở đây, vai trò của người quản lý tài chính trong doanh nghiệp rất quan trọng. Như người mắc nhiều chứng bệnh nặng cùng lúc, điều quan trọng nhất đối với bác sĩ điều trị là làm sao để bệnh nhân sống được cái đã, những việc khác tính sau. Doanh nghiệp cũng vậy, phải tồn tại được, sau đó mới tính đến những vấn đề khác. Do vậy, phải làm sao để lợi nhuận không chỉ là lấy doanh thu trừ đi chi phí mà còn phải tính đến lợi nhuận trên chi phí cơ hội đã bỏ ra, bên cạnh đó còn phải tạo ra giá trị cộng thêm cho doanh nghiệp.

Quản lý dòng tiền cũng không phải để tiền nằm trong két công ty. Tiền đang nằm ngoài thị trường, ở công nghệ, khách hàng, ở cả đối thủ cạnh tranh, nơi người tiêu dùng… Tức là tất cả đồng tiền doanh nghiệp làm ra bắt nguồn từ đó. Do vậy, doanh nghiệp cần đưa sản phẩm gì ra thị trường, thu về bao nhiêu lợi nhuận mới là điều quan trọng.

Kiểm soát dòng tiền còn là việc xem lại tài sản doanh nghiệp trong bảng cân đối kế toán, kiểm tra từng mục một xem có tạo ra năng suất, tạo ra tài sản hay không. Bất kỳ một tài sản nào, cái bàn, cái ghế, một sản phẩm, kể cả nhân viên chẳng hạn không tạo ra giá trị hay lợi nhuận nào thì cần xem lại. Trong lúc này, bất kỳ một đồng tài sản nào bỏ ra cũng phải tạo ra lợi nhuận.

Trong tình hình hiện nay, việc tìm kiếm lợi nhuận là rất khó khăn. Vì thế cách duy nhất để có lợi nhuận là phải giảm chi phí, do vậy doanh nghiệp phải quản lý được chi phí của mình.

Quản lý chi phí

Trong tình hình khó khăn, nhiều doanh nghiệp muốn trấn an nhà đầu tư bằng cách chia cổ tức cao, để chứng tỏ doanh nghiệp làm ăn có lãi. Tuy nhiên, doanh nghiệp cần đặt câu hỏi: Chia cổ tức cao có đồng nghĩa với sức khỏe tài chính doanh nghiệp đang tốt hay không?

Một số công ty tạo cho ban giám đốc, nhân viên một môi trường làm việc thoải mái bằng cách đáp ứng những nhu cầu vật chất như máy tính, xe cộ... nhưng doanh nghiệp cần xem lại điều đó có đem lại hiệu quả hay không, vì nếu chi phí tăng nhưng doanh thu không tăng, lợi nhuận giảm thì sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe tài chính của doanh nghiệp.

Sức khỏe tài chính doanh nghiệp phụ thuộc vào việc quản lý dòng tiền sao cho hiệu quả. Hãy làm cho vòng quay của dòng tiền nhanh hơn từ những khoản thu công nợ. Có thể tăng chiết khấu cho khách hàng để thu tiền về càng nhanh càng tốt. Càng tăng nhanh vòng quay hàng tồn kho thì hiệu quả mang lại càng lớn.

Trong thời điểm khó khăn này, doanh nghiệp cần hành động một cách mau chóng, chính xác và hiệu quả. Mọi quyết định phải khách quan và thực tiễn, đừng quyết định bằng cảm xúc, bằng những ước mơ nào đó mà phải bằng những con số thực tế.

Ngoài ra, doanh nghiệp cũng cần chuẩn bị cho giai đoạn sau khủng hoảng. Doanh nghiệp cần hoạch định chiến lược phát triển trong tương lai, đầu tư kỹ năng cho nhân viên, đề cao vai trò của từng phòng ban, mỗi một bộ phận phải tạo ra giá trị lợi nhuận giúp doanh nghiệp tăng trưởng.

Quản trị tài chính và các vấn đề lớn

Posted by Unknown Thứ Tư, tháng 2 03, 2010, under | No comments

Tài chính là công việc sáng tạo và lý thú, tuy nhiên để trở thành chuyên viên giỏi sẽ khó hơn nhiều so với công việc kế toán. Thật vậy, với chuyên viên kế toán chỉ cần có kiến thức kế toán nhất định, đức tính cẩn trọng và làm việc vài năm tích lũy kinh nghiệm là đạt yêu cầu. Trong khi nhiều chuyên viên tốt nghiệp đại học ngành tài chính, công tác nhiều năm vẫn không đáp ứng yêu cầu công việc.

Bởi vì để trở thành một chuyên viên tài chính thực sự, không chỉ nắm kỹ thuật và có kinh nghiệm; mà cần có khả năng am tường hoạt động kinh doanh của công ty trong bối cảnh nền kinh tế đa dạng. Từ đó dẩn đến khả năng diển dịch và dự đoán được tình hình và xu thế kinh doanh dưới dạng đồng vốn, để quản trị đồng vốn đạt hiệu quả cao cho hoạt động kinh doanh. Khả năng này không chỉ bằng tích lũy kinh nghiệm trong công tác, mà cần có kỹ năng thu thập chọn lọc thông tin, phân tích và đưa ra các giải pháp hợp lý nhất.

kienthuctaichinh.com xin được phép đăng lại bài của ThS. Đinh Thế HIển. Đây là phần trao đổi với các học viên sau khi trải qua khóa học Phân tích Tài chính Đầu tư cao cấp

Phải chăng có một số tố chất bắt buộc để chọn theo ngành này, Không phải siêng năng mà là kiên trì; Không phải cẩn thận mà là tỉnh táo; Không phải chuẩn mực mà là tưởng tượng táo bạo; Không phải là sự tính toán tỉ mỉ chính xác mà là khả năng khái quát hóa với sự làm chủ sai số và xác suất. Đó có phải là sự kết hợp giữa tính lãng mạm của người nghệ sỹ, tinh thần khai phá của người thám hiểm và tính cần cù của nhà nông luôn tin vào mùa vụ bội thu bằng lao động gieo trồng hôm nay. Xin nhường cho các bạn cảm nghiệm thêm.

Dưới đây là một số cảm nghiệm về quản trị tài chính để chia sẽ cùng bạn đọc, với niềm tin sẽ giúp các bạn tiếp cận và vận dụng tốt hơn những kiến thức đã tiếp cận trong khóa học:

1. TẤT CẢ CÁC BÀI TOÁN TÀI CHÍNH PHỨC TẠP ĐỀU CÓ THỂ QUY VỀ BÀI TOÁN CƠ BẢN VỚI MỘT PHÉP TOÁN TRỪ

Những chuyên gia giỏi, có lẽ phân tích vấn đề với phép toán đơn giản hơn nhiều so với chúng ta hình dung ?

Trong quá trình quản trị tài chính, chúng ta lần lượt tiếp cận nhiều bài toán phân tích phức tạp; từ suất sinh lời của vốn kinh doanh, điểm hòa vốn, giá trị cổ phiếu, hiệu quả đầu tư … đa dạng đến mức chúng ta có thể lạc vào mê trận của thuật ngữ và kỹ thuật, tưởng như mỗi lãnh vực là một vùng trời riêng biệt. Nhưng nếu đứng lùi ra xa và nhìn bao quát thì sự việc có thể diển dịch đơn giản, quy về một công thức là Doanh thu trừ chi phí hoặc nguồn thu trừ vốn đầu tư, kết quả của phép toán trừ này nếu dương thì có lợi nhuận (hiệu quả). Đọc đến đây nhiều bạn sẽ không đồng ý vì ….

Tuy nhiên chúng tôi muốn nhấn mạnh đến vẻ đẹp của công thức Lợi nhuận = Doanh thu – Chi phí hay Thu nhập ròng = Thực thu – thực chi, là cơ sở cho mọi công thức tài chính khác. Tôi được dịp tham dự một cuộc họp quyết định phương án đầu tư một chung cư cao cấp tại Q.7, diện tích khu đất là 7.500m2. Sau khi hỏi một vài câu về vị trí, Ong TGĐ (một nhà đầu tư nổi tiếng tại Tp.HCM) ra quyết định giá mua trong khoản 52 – 54 tỷ là mua được, và dự kiến lãi khoảng 25%, và sau đó tôi còn được thấy một số quyết định tương tự cho những dự án kinh doanh khác. Lúc đó tôi khá ngạc nhiên, nhưng khi tôi tính toán cụ thể thì kết quả là tương đương; sau này được dịp trao đổi tôi mới thấy khả năng sử dụng phép tính quy giản tuyệt vời của ông. Từ nhiều cách thức phân tích tương tự của chính tôi và một số nhà quản trị nêu trên, tôi nhớ đến nhà vật lý thực nghiệm nổi tiếng Fermi, trong quá trình tìm những nghiệm cho phương trình tạo bom nguyên tử, ông đã làm các chuyên gia điện toán ngạc nhiên khi những phép toán đơn giản của ông có kết quả gần như máy điện toán đã giải.

Trình bày những điều này tôi không hề muốn làm giảm giá trị các phép toán tài chính phức tạp là nội dung chính đào tạo trong khóa học này. Tôi muốn nhấn mạnh một ý quan trọng, "để trở thành một nhà quản trị tài chính thực thụ, các bạn cần lĩnh hội được vẽ đẹp chân phương của công thức đơn giản trên sau khi đã xuyên qua những kỹ thuật chuyên sâu của tài chính". Điều này đã được Kim Dung thể hiện tuyệt vời trong đoạn mô tả Trương Tam Phong dạy Thái cực quyền cho Trương Vô Kỵ, và thường khái quát trình độ vận dụng võ học của các đại cao thủ, đó là "vô chiêu thắng hữu chiêu"
Một liên tưởng khác, trong tiến trình học hỏi nghiên cứu, chúng ta dể đồng ý với câu ngạn ngử phương tây "chúng ta biết ngày càng nhiều trước sự chưa biết, ngày càng ít đi, cho đến khi không sự việc gì chúng ta không biết". Tuy nhiên John Bogle John Bogle là nhà đầu tư hàng đầu của Mỹ, đã đưa ra phương pháp đầu tư chỉ số trong chứng khoán, áp dụng cho Quỹ đầu tư hàng đầu Vanguard Investment group do ông sáng lập. Phương pháp này đã mang lại thành công vượt bực đưa quỹ tương trợ Vanguard thành quỹ lớn thứ 2 thế giới với vốn đầu tư lên đến 250 tỷ USD chỉ trong một thập niên. lại nói rằng "chúng ta biết ngày càng ít trước sự việc chưa biết ngày càng nhiều, cho đến khi chúng ta không biết gì hết về mọi sự việc". Có điểm tương đồng nào không giữa nhận định của nhà tài chính nổi tiếng này với “vô chiêu” của Kim Dung và cao thâm hơn nữa là "vô vi" của Lão Tử.

Trở về với công việc phân tích tài chính, trong khi nhiều người cứ mãi mê bới tìm những kỹ thuật, những công thức để cố gắng áp thực tế vào một khuôn mẩu có sẳn nào đó (như tầm chương trích cú trong nho học), thì các chuyên gia, những người đã đạt nguyên lý đơn giản của tài chính “thu nhập bằng thực thu trừ thực chi”, có lẻ sẽ phân tích vấn đề với phép toán đơn giản hơn rất nhiều so với chúng ta hình dung ?

2. KHÔNG BAO GIỜ THU THẬP ĐỦ THÔNG TIN CẦN THIẾT. ĐỂ GIẢI CÁC BÀI TOÁN TÀI CHÍNH CẦN CÓ KHẢ NĂNG XÂY DỰNG ĐƯỢC MÔ HÌNH TÀI CHÍNH

Một bài toán tài chính có thể phân làm ba giai đoạn xử lý. Giai đoạn 1 là xác định các yêu cầu và tập hợp các dữ liệu cần thiết; giai đoạn kế tiếp là sử dụng các phép toán thích hợp (xây dựng mô hình tài chính) để tính ra kết quả; cuối cùng là phân tích các kết quả để đưa ra nhận định đánh giá và chọn lựa phương thức thực thi.
Trong đa số trường hợp trong giai đoạn 1 chúng ta không bao giờ thu thập đầy đủ thông tin cần thiết cũng như mức độ tin cậy chắc chắn, có thể do khách quan (các thông tin dự báo, các thông tin mà người phân tích không thể tiếp cận) hoặc do chủ quan (người phân tích không có đủ thời gian hoặc chi phí để thu thập).

Sự thiếu hụt dữ liệu này dẫn đến trong giai đoạn tính toán, chúng ta sẽ gặp khó khăn không biết cách giải quyết bài toán do không tìm thấy một mô hình chuẩn. Điều này thường dẫn đến hai khả năng, hoặc cho rằng không thể giải bài toán, trường hợp ngược lại nếu có người giải bài toán thì lại tỏ ra nghi ngờ tính chính xác vì không đúng với sách vở. Vấn đề chính là chổ chúng ta quá thụ động với mô hình được trình bày trong các sách lý thuyết, mà quên rằng những mô hình đó được khái quát hóa từ vô vàn mô hình thực tế. Do vậy khi áp dụng vào một bài toán thực tế, chúng ta phải có khả năng chuyển mô hình khái quát trong lý thuyết thành mô hình ứng dụng cụ thể
Cốt lõi trong việc xây dựng một mô hình tài chính phù hợp với một trường hợp cụ thể, thứ nhất là chúng ta phải hiểu được bản chất kinh tế của bài toán, thí dụ việc phân tích biến phí_định phí của sản xuất may mặc khác với khu Resort nghỉ dưỡng. Điểm thứ hai là chúng ta phải chấp nhận sai số khi thiếu thông tin Điều này được minh họa tuyệt vời trong các bài toán dành cho ứng viên của MicroSoft, như câu hỏi yêu cầu ứng viên hãy cho biết trong nước Mỹ có bao nhiêu trạm xăng., khi đó chúng ta sẽ chọn phép giải có sai số chấp nhận được. Chúng ta hãy nhớ lại bài toán tính diện tích, nếu miếng đất có hình chử nhật thì chúng ta dể dàng áp dụng công thức. Nhưng nếu có hình phức tạp (ao hồ, dãy đất ven biển) mà công thể tìm ra công thức tính diện tích chuẩn nào, khi đó chúng ta có thể áp dụng phép tích tích phân của Newton với những sai số cho phép. Như vậy đứng trước một bài toán tài chính, chúng ta cần phải chọn lựa và điều chỉnh mô hình tài chính để phù hợp với yêu cầu và sai số cho phép, điều này đòi hỏi tính sáng tạo của chúng ta.

3. TRONG QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH KHÔNG CÓ MỘT LỜI GIẢI DUY NHẤT, mà lời giải được chọn lựa từ không gian giải pháp với sự cân nhắc giữa mức thành công đem lại và xác suất thất bại.

Trong kinh doanh, rất nhiều quyết định trái ngược nhau cùng dẫn đến thành công. Tập trung vào một ít sản phẩm như Coca cola (KO) hay đa dạng như J.Son & J.Son; đầu tư chứng khoán theo chỉ số của John Bogle hay theo giá trị như Maro Gabelli….điều đấy cho thấy có nhiều phương thức kinh doanh khác nhau cùng đạt được hiệu quả cao. Các giải pháp tài chính là sự hoạch định các hoạt động kinh doanh dưới dạng đồng vốn, do vậy cũng sẽ có rất nhiều giải pháp khác nhau. Khi triển khai các giải pháp kinh doanh chúng ta sẽ có nhiều chọn lựa (công suất lớn hay vừa phải, thiết bị tự động hay bán tự động, đầu tư toàn bộ hay có kết hợp thuê ngoài …), mỗi chọn lựa lại có nhiều khả năng khác nhau, thí dụ chọn công suất lớn có khả năng khai thác từ 50% - 80% công suất, tổ hợp các điều này chúng ta có nhiều giải pháp khác nhau mà chúng ta không chắc rằng giải pháp nào cho kết quả tốt nhất. Điều này làm cho bước nhận định và chọn lựa phương thức thực thi sẽ rất khó khăn.

Vấn đề chính là ở chổ chúng ta cần chọn lựa giải pháp thích hợp nhất với mục đích và điều kiện của chúng ta, thí dụ nếu chúng ta đang gặp khó khăn về vốn thì giải pháp ít đòi hỏi chi phí đầu tư sẽ được ưu tiên chọn lựa. Điều cần nhớ là bao giờ chúng ta cũng có một số giải pháp để chọn lựa, mỗi giải pháp sẽ đòi hỏi một số điều kiện để đảm bảo khả năng thành công. Chính vì thực tiển này đôi khi người ta nhận định quản trị tài chính là một nghệ thuật; tuy nhiên chúng tôi muốn nói rằng đó là nghệ thuật của các con số và định luật kinh tế, mà nếu không tuân thủ thì chắc chắn sẽ bị trả giá.

Ngạn ngữ có câu “mọi con đường đền dẫn tới Roma”, các chuyên gia tài chính sẽ nói thêm “ nhưng trong số đó sẽ có những con đường tốt hơn, và chúng ta sẽ chọn ra một con đường có xác suất tốt nhất trong điều kiện của chúng ta”

4. PHƯƠNG PHÁP DÒNG TIỀN CHIẾT KHẤU, KỸ THUẬT QUAN TRỌNG GIẢI BÀI TOÁN TÀI CHÍNH.

Nếu chọn ra một nguyên lý quan trọng nhất của Tài chính hiện đại, thì đó là nguyên lý giá trị đồng tiền biến đổi theo thời gian; có nghĩa là giá trị đồng tiền hôm nay khác với giá trị đồng tiền năm sau và năm sau nửa. Theo nguyên lý này, chúng ta không thể so sánh trực tiếp các số tiền khác thời điểm. Thí dụ nếu chúng ta bỏ ra 1 tỷ đồng mua một miếng đất và sau 3 năm chúng ta bán được 1,4 tỷ thì chúng ta có lãi hay không, phép toán trừ có kết quả lãi 400 triệu không được chấp nhận. Nhiều chuyện kinh doanh khác phức tạp hơn, thí dụ chúng ta đầu tư 100 tỷ đồng xây dựng nhà máy chế biến thủy sản, và dự kiến nguồn thu dần dần trong 10 năm (là thời gian sử dụng thiết bị đã đầu tư) cộng lại là 180 tỷ thì có nên đầu tư hay không? Rồi chuyện bỏ ra một số tiền lớn để mua các cổ phiếu của một công ty còn chưa có tiếng tăm để 2 năm sau khi cổ phiếu được giá sẽ bán, khi đó giá bán CP tối thiểu là bao nhiêu để chúng ta có lãi 20%/năm….

Để giải quyết các vấn đề này chúng ta sử dụng kỹ thuật chiết khấu dòng tiền, quy số tiền các năm tương lai về năm hiện tại để có thể so sánh trực tiếp (khi đó mới sử dụng công thức thu nhập = thực thu – thực chi). Như vậy đây là phương pháp quan trọng bật nhất của tài chính, được áp dụng để giải các bài toán tài chính đầu tư phức tạp như hiệu quả dự án đầu tư, định giá CP và bất động sản, định giá doanh nghiệp…

Đối với chuyên viên phân tích tài chính một khi đã nắm vững phương pháp này kết hợp với mô hình tài chính thì tất cả bài toán tài chính, dù phức tạp đến đầu cũng có thể giải quyết, như là một đại cao thủ đã đạt được nguyên lý võ học, có thể biến hóa quyền pháp tùy cơ. Đặt biệt với công cụ Excel, đã giải phóng sự nặng nhọc trong các phép tính; thì việc giải bài toán tài chính bằng mô hình và phương pháp chiết khấu dòng tiền trở thành một nghệ thuật thú vị, có thể trả lời nhiều câu hỏi một cách nhanh chóng.

5. RỦI RO VÀ THU NHẬP, TRIẾT LÝ TẠO RA SỰ PHONG PHÚ TRONG SẢN PHẨM TÀI CHÍNH.

Bước vào thế giới tài chính chúng ta thấy có quá nhiều luật chơi, các sản phẩm phong phú và đa dạng. Xét về huy động vốn của doanh nghiệp, chúng ta có cổ phiếu ưu đãi, CP thường, vay NH, trái phiếu, trái phiếu lãi suất biến đổi, trái phiếu chuyển đổi…Trong lĩnh vực các tổ chức cấp vốn chúng ta có Ngân hàng, công ty tài chính, thuê mua tài chính, Quỹ đầu tư tương hỗ, Quỹ đầu tư mạo hiểm…còn các công cụ kinh doanh tiền tệ thì hợp đồng giao sau, hợp đồng quyền chọn…

Khi vào một Casino bạn sẽ hoa mắt vì quá nhiều trò chơi, từ chơi tài_xỉu với khả năng ăn thua tương đương gần 1 - 1 cho đến khó thắng hơn khi chơi quay Rulex bỏ 1 đồng trúng sẽ được 70 đồng nhưng khả năng thắng chỉ có 1%. Rỏ ràng bạn có thể chọn trò chơi tuỳ ý nhưng không có trò chơi nào sẽ có lợi cho bạn hơn trò chơi khác, mà chỉ là phần thưởng cao thì khả năng thắng thấp hoặc ngược lại.

Về mặt nào đó, tiền thắng và khả năng mất trong các trò chơi của Casino cũng tương tự các công cụ và sản phẩm tài chính. Nhà quản trị tài chính luôn phân vân trong việc huy động vốn, vay ngân hàng hay phát hành thêm CP; nếu vay sẽ hứa hẹn mang lại hiệu quả cao hơn cho các cổ đông hiện tại nhưng cũng tạo ra áp lực rủi ro trả nợ. Trường hợp khác, để đảm bảo khả năng sinh lợi an toàn của một hợp đồng xuất khẩu lớn, CFO có thể sử dụng hợp đồng bảo hiểm tỷ giá với chi phí chấp nhận được. Tuy nhiên nếu công cuộc kinh doanh nào cũng sử dụng các nghiệp vụ bảo hiểm rủi ro thì khả năng thu lợi sẽ không còn nữa.

Trong quá trình phát triển của thị trường tài chính đã tạo ra các loại hình tài chính và dịch vụ tài chính phong phú dựa trên mối quan hệ giữa rủi ro và thu nhập; một nhà quản trị tài chính có kinh nghiệm sẽ chọn lựa những công cụ thích hợp trong quá trình quản trị và phát triển đồng vốn của mình. Nhưng nhất quyết không bao giờ được liều lĩnh đưa doanh nghiệp vào cuộc chơi đỏ đen đầy rủi ro.

6. QUẢN TRỊ RỦI RO LÀ NHIỆM VỤ QUAN TRỌNG CỦA QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH

Ngày nay nếu có nhiệm vụ cốt yếu nào mà nhà quản trị tài chính cần phải gánh vác thì đó là nhiệm vụ quản trị rủi ro. Trong nền kinh tế thị trường phát triển và hội nhập, các doanh nghiệp phải chấp nhận sự cạnh tranh, lĩnh vực nào hứa hẹn sinh lợi nhất thường gặp phải cạnh tranh mạnh nhất hoặc là lĩnh vực có khả năng thất bạo cao.

Các chuyên gia kinh tế hàng đầu của thế giới cùng chung quan điểm “rủi ro là thuộc tính của nền kinh tế trong kỹ nguyên mới”. Trong tác phẩm Rethinking the Future Tác phẩm tập hợp những bài phân tích về xu thế của nền kinh tế trong sự tác động của làn sóng thứ 3 về công nghệ do Rowan biên soạn được NXB Trẻ xuất bản dưới tựa đề Tư duy lại tương lai., Alvin và Heidi Toffler đã trình bày khái quát “ khi phương thức tạo ra của cải của làn sóng thứ ba được triển khai rộng rãi, được đánh dấu bởi sự xáo trộn và xung đột xã hội, thì nó sẽ tạo ra một tình trạng không thể tiên đoán trước ở mức độ cao và những điều kiện phi tuyến tính”

Xét về vĩ mô đó là chu kỳ kinh tế các nước phát triển ngày càng ngắn hơn, về vi mô chúng ta đã chứng kiến nhiều đại gia tưởng rằng bất khả xâm phạm đã có những thời điểm suy thoái nặng nề như IBM, For, Nisan... Chúng ta cũng thấy sự suy thoái rồi hồi sinh đầy thuyết phục của Apble, Samsung…Trong thực tiển tại các nước phát triển, các công ty luôn đối đầu với những bất trắc do môi trường kinh tế tác động, dù là công ty đa quốc gia hay tầm địa phương. Thực tiển này đặt ra cho nhà quản trị tài chính công ty cần chuẩn bị một nguồn lực đủ mạnh để vượt qua những đợt suy thoái nghiêm trọng giúp cho công cuộc kinh doanh không bị sụp đổ một cách đáng tiếc. Trong đợt kiện chống bán phá giá thủy sản vừa qua của Mỹ, những xí nghiệp chế biến yếu lực phải phá sản, trong khi một số công ty có nguồn lực và năng động đã trụ được và phát triển mạnh khi VN gia nhập WTO là một minh họa.

Hãy luôn nhớ, khi gặp khó khăn nghiêm trọng thì mọi chiến lược khắc phục đều cần tới nguồn lực tài chính, và nhiều công ty đã bị phá sản bởi vì không có sự chuẩn bị nguồn lực tài chính cần thiết, đã quá mãi mê vay mượn phát triển đầu tư mà thiếu chiến lược tài chính tốt để quản trị rủi ro.

7. NHÀ QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH LUÔN NHỚ QUY LUẬT “ LƯỢNG ĐỔI CHẤT ĐỔI”

Có một câu nói kinh điển mà các giảng viên khoa quản trị kinh doanh hay giới thiệu cho các sinh viên, đó là “ chi 1 triệu USD mà hợp lý cũng sẳn sàng, nhưng chi 1 USD không đúng sẽ dứt khoát không chi”. Chúng ta không cần bàn luận thêm câu phát biểu đầy hàm ý này. Nhưng tôi muốn nói với các chuyên viên tài chính trẻ một câu khác “chi 1 USD thì không phải đắn đo gì nhiều, nhưng chi 1 triệu USD thì cần đặt lên đặt xuống nhiều lần trước khi quyết định”.

Tôi đã thấy một ông giám đốc ra những quy định chi tiết về việc in 2 mặt của tờ giấy mà không phân tích việc này tiết kiệm được bao nhiêu, trong khi dự án đầu tư hàng chục tỷ, nhưng lại không muốn chi vài chục triệu cho công tác điều tra thị trường, nghiên cứu công nghệ thiết bị. Tôi cũng thấy một công ty rất vững mạnh có thương hiệu và sản phẩm bán chạy; nhưng đang đứng trên bờ vực do đã đầu tư một dự án mới với vốn đầu tư, chủ yếu là vốn vay lớn hơn nhiều quy mô vốn đang kinh doanh hiện tại; với quy mô đó khi dự án gặp khó khăn thì không cách gì sử dụng nguồn lực hiện có để bù đắp.

Lượng đổi chất đổi là một quy luật triết học đặc biệt quan trọng mà nhà quản trị tài chính cần ghi nhớ. Khi công ty tăng quy mô và vốn rất lớn thì phương thức cổ phần đại chúng sẽ tốt hơn hình thức TNHH; một sự gia tăng vay nợ vượt tỷ lệ an toàn, một khách hàng có mức dư nợ tăng dần,… đều là những cảnh báo cần phải có phương thức tác động thích hợp, nếu không sẽ đưa tình hình tài chính công ty vào chổ nguy hiểm. Vận dụng điều chỉnh quản trị tài chính theo từng giai đoạn tăng trưởng của công ty, chính là giúp cho tình hình tài chính công ty luôn vững mạnh

8. CHỦ ĐỘNG _ SÁNG TẠO LÀ PHẨM CHẤT QUAN TRỌNG NHẤT CỦA NHÀ TÀI CHÍNH


Sau cùng tôi muốn kể cho các bạn một truyền thuyết thời Đông Châu liệt quốc. Tô Tần sau khi học thành tài được Quỹ Cốc tiên sinh tặng cho một quyển bí quyết về nghệ thuật du thuyết. Tô Tần đọc làu thông và đi du thuyết, nhưng suốt 3 năm tiêu tốn tiền của gia đình vẩn thất bại ôn hận trở về. Sau đó Tô Tần đọc lại bí quyết và mới phát hiện trang cuối có ghi lời thày “bao giờ con quyên những điều trong đây thì con đã lĩnh hội xong bí quyết và có thể xuất sơn”. Tô Tần quyết định suất gia lần nửa và ông đã trở thành tướng quốc của 6 nước chống với nhà Tần. Cũng có thể sau lần đọc lại Tô Tần đã kết hợp với những kinh nghiệm thực tế của mình nên nhìn vấn đề tốt hơn, cũng có thể ông đã lĩnh hội được sự sinh động của kiến thức mà chính mình phải tạo ra.

Câu chuyện này có nhiều điểm tương đồng với câu chuyệu “ vô chiêu” ở trên, nhưng nó không chỉ là chuyện trà dư tửu hậu. Các Trường đại học của Mỹ hiện nay không còn hình thức thày giảng trò ghi, lời thầy là chân lý; mà đã chuyển sang hình thức thày là người giới thiệu, gợi ý; trò là chủ thể nghiên cứu, học hỏi – tranh luận – sáng tạo. Như vậy “ học là quá trình để quên ” của các câu chuyện trên đây có ngụ ý “ học là quá trình để biến cái được thấy thành cái của mình, với những ý tưởng mới đầy sáng tạo trong các thực tiển mình đang gặp phải”.


Xem Nhiều

Bài đăng phổ biến

Lưu trữ blog

Blog Archive